Ngày 29/12/1987, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đây được xem là một quyết định lịch sử mở đường cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đóng góp quan trọng tới sự tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp sở hữu 100% vốn.
Tiếp theo đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định doanh nghiệp FDI chỉ được thành lập dưới hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.
Trong quá trình hoạt động, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhu cầu chuyển đổi hình thức hoạt động sang công ty cổ phần và niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Ngày 15/04/2003, sau 15 năm kể từ ngày mở cửa cho dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/2003/NĐ-CP cho phép một số doanh nghiệp FDI chuyển đổi hình thức hoạt động từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần đồng thời cho phép các công ty cổ phần này được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong giai đoạn 2003 - 2008, đã có 10 doanh nghiệp FDI được chấp thuận chuyển đổi từ hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần và được niêm yết.
Đó là Công ty cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (2005), Công ty cổ phần Gạch men Chang Yih (2006), Công ty cổ phần Thực phẩm Quốc tế (2006), Công ty cổ phần Full Power (2006), Công ty cổ phần Công nghiệp Tung Kuang (2006), Công ty cổ phần Công nghiệp Gốm sứ Taicera (2006), Công ty cổ phần Quốc tế Hoàng Gia (2007), Công ty cổ phần Mirae (2008), Công ty cổ phần Mía đường Thành Thành Công Tây Ninh (2008), Công ty cổ phần Everpia (2010).
Sau giai đoạn này có thêm một doanh nghiệp FDI niêm yết là Công ty cổ phần Siam Brothers Việt Nam (2017) được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014.
Như vậy, đã có 11 doanh nghiệp FDI đã chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần và niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán.
Tuy nhiên, đến nay, chỉ còn 8 doanh nghiệp FDI đang niêm yết, 3 doanh nghiệp FDI hủy niêm yết do hoạt động kinh doanh thua lỗ (trong đó có 2 công ty đang đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM).
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp FDI niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2016-2020 (Đvt: VND). |
Năm 2020, đa số các doanh nghiệp FDI đang niêm yết, đăng ký giao dịch chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Phần lớn các doanh nghiệp FDI có lợi nhuận sau thuế giảm hoặc có kết quả kinh doanh thua lỗ trong năm vừa qua, trừ Siam Brothers Việt Nam (HoSE: SBV) và Công nghiệp Tung Kuang (HNX: TKU) có lãi ròng tăng tương ứng 18% và 56%.
Trong giai đoạn 2016-2019, 7/10 doanh nghiệp FDI niêm yết, đăng ký giao dịch thường xuyên có lãi qua các năm, 3/10 doanh nghiệp FDI có kết quả kinh doanh thua lỗ (Gạch men Chang Yih: CYC; Quốc tế Hoàng Gia: RIC và Gốm sứ Taicera: TCR).
Trong các doanh nghiệp kinh doanh có lãi, Thực phẩm Quốc tế (Interfood, UPCoM: IFS) là công ty có lợi nhuận sau thuế tăng trưởng bền vững qua các năm, tăng hơn 5 lần từ năm 2016 đến 2019.
Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp FDI có kết quả kinh doanh có lãi vẫn lớn hơn so với số lượng FDI kết quả kinh doanh thua lỗ.
Dù vậy, quy mô của doanh nghiệp FDI niêm yết, đăng ký giao dịch là nhỏ so với quy mô của thị trường chứng khoán khi vốn hóa của các doanh nghiệp này chỉ chiếm khoảng 0,3% trong tổng vốn hóa thị trường.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đánh giá, vẫn chưa xuất hiện tình trạng thoái vốn của cổ đông sáng lập và nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp FDI đang niêm yết, đăng ký giao dịch.
Bên cạnh đó, tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại 8/10 doanh nghiệp FDI đang niêm yết, đăng ký giao dịch có xu hướng tăng sau khi lên sàn và chỉ có 2/10 doanh nghiệp FDI có tỷ lệ sở hữu nước ngoài giảm.
Link nội dung: https://biztoday.vn/da-so-doanh-nghiep-fdi-dang-niem-yet-deu-co-lai-206768.html