Đa đạng sinh học Việt Nam đang suy giảm theo thời gian

Theo Sách đỏ năm 2007, số lượng các loài đe doạ tuyệt chủng có khoảng 900 loài nhưng hiện nay ước tính tăng lên khoảng 1200 loài.

Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có sự phong phú và đa dạng về các nguồn gen quý, hiếm với gần 12.000 loài thực vật có mạch, 330 loài thứ, 918 loài và phân loài chim, 517 loài bò sát, gần 3.000 loài cá. Chỉ riêng vùng Tây Nguyên - Nam Trung bộ có tới 36 khu vực DDSH trọng yếu (KBAs), hơn 3,76 triệu ha rừng tự nhiên, nhiều trung tâm đặc hữu thực vật, chim, bò sát, ếch nhái với nhiều loài đặc hữu. Ước tính sơ bộ hơn 5.000 loài thực vật. Có ít nhất 142 loài thú, 448 loài chim, hơn 120 loài bò sát và 84 loài lưỡng cư

Tuy nhiên với các áp lực đe dọa chính như mất rừng và suy thoái sinh cảnh sống, suy giảm quần thể, ô nhiễm môi trường, bệnh dịch, BĐKH, loài ngoại lai, săn bắn, bẫy bắt... trong đó, việc sử dụng tài nguyên không hợp lý đã đe dọa đến 58,5% loài thực vật và 86,1% loài động vật; hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản đe dọa đến 52% số loài thực vật và 39,3% loài động vật; phát triển khu dân cư và cơ sở hạ tầng đã đe dọa đến 49,3% loài động vật. Số loài bị đe dọa cấp độ toàn cầu phân bố ở Việt Nam theo Danh lục Đỏ IUCN (2021) là 891 loài động vật và 367 loài thực vật.

da-dang-sinh-hoc-1660037364.jpg

Phát biểu tại Hội thảo “Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên lần thứ III” với chủ đề “Tương lai cho phục hồi các hệ sinh thái trọng điểm và bảo tồn các loài nguy cấp” ngày 29/7, PGS. TS Võ Văn Minh, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng cho biết, hưởng ứng thông điệp toàn cầu “Thập niên 2021 - 2030 là Thập niên Liên hợp quốc về phục hồi hệ sinh thái”, Việt Nam cùng với các tổ chức chuyên môn lẫn các doanh nghiệp đã hợp tác với các hành động cụ thể trong nỗ lực bảo tồn các loài nguy cấp, phục hồi rừng, đại dương cũng như cam kết phát thải zero...

Tuy nhiên những cam kết, những nỗ lực của Chính phủ cũng như các tổ chức, đơn vị có liên quan vẫn chưa đủ mạnh để ngăn cản tác động của BĐKH nói chung cũng như áp lực kinh tế với tư duy khai thác tài nguyên để làm giàu nhanh; các dự án lấp sông, lấn biển khai thác quỹ đất bừa bãi; khai thác rừng tự nhiên “núp” dưới nhiều tên gọi dự án khác nhau; phát triển rừng sản xuất đơn loài ào ạt; phát triển công nghiệp và xả thải chất ô nhiễm ra môi trường...

Về nguyên nhân chủ quan là nguồn lực phục vụ quản lí đa dạng sinh học, quản lí rừng, quản lí đại dương còn quá mỏng so với trách nhiệm. Trong khi đó, các thủ đoạn tàn phá thiên nhiên môi trường để thu lợi quá mạnh. Mặt khác, vai trò của cộng đồng trong quản lí tài nguyên và môi trường vẫn còn nhiều hạn chế...

Đồng quan điểm, GS.TS Nguyễn Quảng Trường, Phó Viện trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật (IEBR) cũng cho rằng, thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên thông qua các chính sách, giải pháp cụ thể như thành lập hàng loạt khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển…. cũng như có một loạt các chương trình bảo vệ các loài voi, linh trưởng, rạn san hô. Tuy nhiên chúng ta đang phải đối diện với nhiều thách thức suy giảm hệ sinh thái trước áp lực phát triển kinh tế, việc săn bắt, sử dụng trái phép ĐVHD và BĐKH… Đáng lo ngại là mức độ đe doạ cũng tăng lên theo thời gian. Theo Sách đỏ năm 2007, số lượng các loài đe doạ tuyệt chủng có khoảng 900 loài nhưng hiện nay ước tính tăng lên khoảng 1200 loài. Trong đó có một số loài chính thức bị tuyệt chủng như tê giác một sừng.

“Bên cạnh việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật về bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, loài thực vật, động vật hoang dã nguy cơ tuyệt chủng cũng rất cần sự chung tay của các cấp chính quyền và người dân bằng những hành động cụ thể như không sử dụng sản phẩm từ ĐVHD, bảo vệ môi trường sống của các loài, giảm thiểu sử dụng năng lượng…”- GS.TS Nguyễn Quảng Trường chia sẻ.

Từ những bất cập thực tế trên, TS.Phạm Anh Dũng đề xuất trong thời gian tới, công tác ĐTM cần tập trung nghiên cứu hoàn thiện để có bộ tiêu chí để có thể lượng hóa các thiệt hại về tài nguyên rừng, đa dạng sinh học khi thực hiện dự án đầu tư, từ đó làm căn cứ yêu cầu chủ dự án có phương án trồng bù rừng, bồi hoàn đa dạng sinh học cụ thể, khả thi; cần nghiên cứu để có những đánh giá tác động của các dự án tới biến đổi khí hậu và ngược lại; đẩy mạnh công tác kiểm tra việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác ĐTM ở các địa phương.

Đồng quan điểm, GS.TS Đặng Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam đề xuất ưu tiên những giải pháp cần làm ngay nhằm làm tốt hơn hoạt động ĐTM gồm: hoàn thiện bộ tiêu chí về đánh giá thiệt hại về môi trường, đa dạng sinh học; áp dụng khoa học - công nghệ mới, tiên tiến, tốt nhất có thể phù hợp với điều kiện nước ta trong thực hiện ĐTM; xây dựng hướng dẫn những danh mục kỹ thuật trong ĐTM đối với một số lĩnh vực đặc biệt, phù hợp với Luật Bảo vệ Môi trường 2020; cần có công cụ đánh giá tác động môi trường tổng hợp cho một vùng lãnh thổ.

Bên cạnh đó, GS.TS Đặng Kim Chi đề nghị tăng cường sự minh bạch trong tham vấn của cộng đồng trong các báo cáo ĐTM; tăng cường công tác đào tạo các chuyên gia thẩm định, lập báo cáo ĐTM; quy rõ trách nhiệm của chủ đầu tư và đơn vị tư vấn trong thực hiện báo cáo...

Link nội dung: https://biztoday.vn/da-dang-sinh-hoc-viet-nam-dang-suy-giam-theo-thoi-gian-354855.html