Cụ thể, từ nay tới năm 2030, Bộ Công thương kiến nghị tập trung phát triển 2 chuỗi dự án khí – điện Lô B và Cá Voi Xanh với tổng công suất mới 6.900MW.
Trong đó, cụm nhà máy điện sử dụng khí lô B gồm 3 nhà máy mới Ô Môn II, III, IV (tổng công suất 3.150MW) và Ô Môn I (660MW) hiện hữu chuyển sang nhiên liệu khí.
Ô Môn III, IV do EVN đầu tư (Ô Môn III được duyệt chủ trương đầu tư tháng 8/2022, Ô Môn IV chuẩn bị đấu thầu chọn tổng thầu EPC), Ô Môn II (chủ đầu tư là Marubeni-Vietracimex) đã duyệt chủ trương đầu tư, đang hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi.
Với các dự án thượng nguồn, Bộ Công thương cho biết đã đàm phán xong với các nhà đầu tư Nhật Bản và Thái Lan từ bỏ yêu cầu có bảo lãnh chính phủ. Theo chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Công thương đang cùng PVN, EVN đẩy nhanh chuỗi dự án này.
Cụm nhà máy điện sử dụng khí Cá Voi Xanh gồm 5 nhà máy Dung Quất I, II, III, Miền Trung I, II với tổng công suất 3.750MW. Hiện tại, dự án phát triển mỏ khí thượng nguồn, đường ống, trạm xử lý khí trên bờ (do ExxonMobil làm nhà điều hành) đang chậm dẫn đến việc đàm phán các thỏa thuận thương mại và Bảo lãnh chính phủ (GGU) chậm, ảnh hưởng đến tiến độ các công việc khác.
Phía hạ nguồn do EVN đầu tư 2 dự án (Dung Quất I, III), Sembcorp (Singapore) đầu tư dự án BOT Dung Quất II, PVN đầu tư 2 dự án (Miền Trung I và II). Tiến độ toàn chuỗi dự kiến năm 2028-2029, Bộ Công thương cho biết sẽ tập trung đôn đốc chuỗi dự án này trong thời gian tới.
Bên cạnh 2 chuỗi dự án nêu trên, dự kiến sẽ phát triển mỏ Kèn Bầu (lô 114 ngoài khơi khu vực Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) và mỏ Báo Vàng (lô 112 ngoài khơi Quảng Trị). Trong đó, mỏ Kèn Bầu (nhà đầu hành ENI – Italia) thông báo ban đầu có trữ lượng lớn (có thể đủ khí cho 4.000-6.000MW), nhưng khoan thẩm lượng 2 lần chưa thành công, nên dự kiến phát triển giai đoạn 2031-2035. Nếu thuận lợi sẽ báo cáo Thủ tướng đẩy sớm khai thác và bổ sung các nhà máy điện hạ nguồn.
Riêng mỏ khí Báo Vàng và nhà máy tua-bin khí Quảng Trị 340MW (nhà đầu tư Gazprom – Nga) vẫn chưa xác định xong trữ lượng mỏ khí. Vì vậy, dù thể hiện quyết tâm nhưng khó có thể đưa vào vận hành trước năm 2030.
Đáng chú ý, 2 dự án điện khí (Kiên Giang I, II) trong Quy hoạch VII điều chỉnh do PVN là chủ đầu tư không được xem xét trong Quy hoạch điện VIII đến năm 2030, vì không xác định được nguồn nhiên liệu.
Các dự án điện sử dụng khí LNG nhập khẩu cũng nhận được tín hiệu tích cực, khi Bộ Công thương đề xuất xây dựng 24.500MW từ nay đến 2030 trong kịch bản phụ tải cao (tăng 600MW LNG so với các báo cáo trước đây để bù cho việc giảm 600MW nhiệt điện than Công Thanh).
Trong số này, ghi nhận 11 dự án (tổng công suất 17.900MW) đã được duyệt, bổ sung trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, gồm: Nhơn Trạch 3,4 (1.500MW), Hiệp Phước giai đoạn 1 (1.200MW), Bạc Liêu (3.200MW), BOT Sơn Mỹ I (2.250MW), BOT Sơn Mỹ II (2.250MW), Long An I (1.500MW), Long Sơn (1.500MW), Cà Ná (1.500MW), Hải Lăng (1.500MW) và Quảng Ninh 1 (1.500MW). Hiện chỉ còn 2 dự án/3.000MW (Cà Ná, Long Sơn) chưa có chủ đầu tư.
Quy hoạch điện VIII chỉ bổ sung 5 dự án sử dụng khí LNG với tổng công suất 6.600MW tại khu vực miền Bắc. Trong đó, chỉ có 2 dự án mới (Thái Bình và Nghi Sơn), 3 dự án (Quỳnh Lập, Quảng Trạch 2 và Công Thanh là nhiệt điện than trong Quy hoạch VII điều chỉnh chuyển sang LNG). Việc chuyển đổi nhiên liệu 3 dự án và bổ sung 2 dự án LNG nêu trên là rất cần thiết, do khu vực miền Bắc đang thiếu nguồn chạy nền, nhu cầu điện đang tăng nhanh.
Nếu không phát triển các nhà máy chạy nền miền Bắc thì phải tăng truyền tải trên đường dây 500kV, thậm chí phải xây dựng thêm đường dây, Bộ Công thương nhấn mạnh.
Link nội dung: https://biztoday.vn/tuong-lai-cho-nhiet-dien-khi-417414.html