Ảnh minh họa.
Thiệt đơn, thiệt kép
Nhu cầu thép toàn cầu tiếp tục giảm trong quý III-2022 ở tất cả các sản phẩm, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu và chính sách zero Covid tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, theo dữ liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tổng sản lượng tiêu thụ thép (bao gồm thép xây dựng, ống thép và tôn mạ) trong quý III vẫn tăng 5% lên 4,05 triệu tấn, nhưng đó là so với mức nền thấp của năm ngoái khi ảnh hưởng đại dịch, còn nếu so với cùng kỳ năm 2020 tổng sản lượng tiêu thụ thép lại sụt giảm đến 11%.
Nguyên nhân từ trong nước là do nhiều dự án BĐS nhà ở “đứng hình” bởi thủ tục nên thị trường này gần như “đóng băng”. Bên cạnh đó là “cú bồi” thêm khi room tín dụng hạn chế nên DN BĐS khó tiếp cận vốn ngân hàng mà nếu có cũng vay với lãi suất cực cao, và người mua nhà cũng bị ảnh hưởng như chủ đầu tư phát triển dự án khi không dám và không thể vay vốn.
Khi DN BĐS “đứng hình” thì đương nhiên kéo theo DN thép “chung xuồng”. Nguyên nhân từ ngoại lai khi áp lực lạm phát kéo dài khiến các nền kinh tế lớn phải thắt chặt chính sách tiền tệ, từ đó phủ bóng đen lên triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Như vậy một mặt DN thép phải chịu tác động từ giá nguyên liệu đầu vào biến động tăng, mặt khác khi nhu cầu thép toàn cầu sụt giảm gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của các DN thép Việt Nam. Mặc dù giải ngân đầu tư công trong nước được kỳ vọng sẽ tăng tốc trong những quý tới, nhưng dự báo của giới phân tích tổng nhu cầu thép trong nước sẽ tăng trưởng âm 1 chữ số vào năm 2023.
Nhu cầu tăng trưởng yếu cũng chính là các yếu tố đẩy giá quặng sắt giảm mạnh và hiện đang giao dịch quanh mức 80USD/tấn, giảm 45% so với vùng đỉnh hồi tháng 4. Nhiều chuyên gia kinh tế thế giới còn dự báo giá thép sẽ giảm xuống mức thấp hơn trong dài hạn. Sự sụt giảm này đến từ mức tăng trưởng khiêm tốn trong sản xuất thép lò cao (so với thập niên trước) từ các nhà sản xuất lớn như EU, Mỹ và Trung Quốc, khi xu hướng toàn cầu chuyển sang trạng thái cắt giảm phát thải.
Mức cầu tăng chậm lại này cũng sẽ diễn ra cùng với nguồn cung ngày càng tăng từ Australia, Brazil và châu Phi và dự kiến sẽ làm giảm giá quặng sắt cho đến năm 2024. Theo Bộ Công nghiệp, Khoa học, Năng lượng và Tài nguyên Australia (DISR), trung bình giá quặng sắt năm 2022 được dự báo đạt 110USD/tấn (giảm 29,5%), trước khi giảm xuống dưới 90USD/tấn trong năm 2023-2024.
“Ông lớn” cũng "thấm đòn”
Nếu nhu cầu tiếp tục yếu hơn kỳ vọng trong tháng cuối năm, HPG sẽ xem xét đóng cửa thêm 1 lò cao nữa vào tháng 12. Kế hoạch đóng cửa 5/7 lò cao của HPG, rõ ràng là thông điệp rất tiêu cực về ngành thép nội địa trong ngắn hạn.
Nhu cầu sử dụng thép trong nước ở mức thấp, cộng thêm xuất khẩu giảm mạnh, khiến sản lượng tồn kho 9 tháng tăng mạnh so với cùng kỳ 2021. Hầu hết các DN thép có lợi nhuận sau thuế quý III âm, do nhập hàng tồn kho giá cao của 2 quý đầu năm trong khi từ quý III giá thép giảm, đã vậy một số DN còn lỗ tỷ giá khi đồng USD liên tục biến động tăng.
Hiện CTCP Tập đoàn Hòa Phát (HPG) là DN duy nhất vẫn duy trì được biên lợi nhuận gộp dương do tự chủ chuỗi giá trị, nhưng HPG chịu áp lực nặng nề bởi lãi suất và tỷ giá. Đây là nguyên nhân khiến cho HPG gánh khoản lỗ “khủng” gần 1.800 tỷ trong quý III-2022. Danh sách các DN lỗ lớn trong quý vừa qua còn có CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HSG), CTCP Thép Pomina (POM), Tổng CTCP Thép Việt Nam (TVN), CTCP Thép Nam Kim (NKG), CTCP Đầu tư thương mại SMC (SMC).
Đứng trước thế khó này, từ cuối tháng 9, nhiều DN thép đã công bố kế hoạch cắt giảm sản lượng lớn. Đơn cử là POM thông báo đóng cửa lò cao POM 2 kể từ ngày 25-9, hay Công ty TNHH Thép Miền Nam đã cho nhân viên nghỉ luân phiên theo kế hoạch ngừng sản xuất kể từ quý IV. Thậm chí, nhiều DN nhà sản xuất tôn mạ lớn đã tạm ngừng một số dây chuyền sản xuất.
Tuy nhiên, gây bất ngờ nhất là trường hợp của HPG - tập đoàn thép đầu ngành này vừa công bố kế hoạch đóng cửa 2/3 lò cao tại nhà máy Hải Dương, và 2/4 lò cao tại Khu liên hợp Gang thép Dung Quất trong tháng 11. Nếu nhu cầu tiếp tục yếu hơn kỳ vọng trong tháng cuối năm, HPG sẽ xem xét đóng cửa thêm 1 lò cao nữa vào tháng 12. Kế hoạch đóng cửa 5/7 lò cao của HPG, rõ ràng là thông điệp rất tiêu cực về ngành thép nội địa trong ngắn hạn.
Nhận định về quyết định “tắt lò” của HPG, các chuyên viên phân tích của CTCK VNDirect (VNDS), cho rằng chi phí đóng cửa và mở lại mỗi lò cao vào khoảng 40 tỷ đồng và mất từ 5-7 ngày để khởi động lại 1 lò. Do đó, mối lo ngại chính trong thời gian tới là nhu cầu thép giảm nhanh ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu, hơn là bản thân việc đóng cửa lò cao. Việc đóng cửa các lò cao có thể được coi là một dấu hiệu cho thấy quan điểm thận trọng của ban lãnh đạo về triển vọng thị trường thép trong tương lai.
Theo cập nhật mới nhất, sản lượng tiêu thụ thép xây dựng của HPG trong tháng 10 giảm đáng kể xuống 210.000 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 3-2021. Theo đó sản lượng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa trong tháng lần lượt giảm 73% và 44% so với cùng kỳ. Sản lượng tiêu thụ phôi thép, ống thép và thép mạ kẽm cũng giảm lần lượt 92%, 21% và 40% so với cùng kỳ.
Như vậy xem ra ngành thép đang trong giai đoạn khó khăn nhất của một chu kỳ, và sẽ còn tiếp tục khó khăn trong 3-6 tháng tới. Câu hỏi đặt ra là khi nào xu hướng tiêu cực sẽ đảo chiều? Theo VNDS, đã xuất hiện một số tín hiệu có thể là tiền đề cho việc ngành thép được cải thiện.
Đầu tiên là giá than cốc được dự báo sẽ giảm từ mức 420USD/tấn của năm 2022 xuống lần lượt 220-258USD/tấn trong năm 2023-2024, khi các mỏ khai thác than cốc được hoạt động bình thường trở lại. Yếu tố thứ 2 là Trung Quốc dỡ bỏ giãn cách xã hội sẽ kích thích nhu cầu thép toàn cầu. Cuối cùng là chính sách đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam sẽ bù đắp phần nào cho việc thị trường BĐS trì trệ.
Link nội dung: https://biztoday.vn/nganh-thep-truoc-nguy-co-tat-lo-418001.html