Tổng nợ phải thu khó đòi 279 tỷ đồng
KTNN chuyên ngành VI đã thực hiện kiểm toán tại (TKV) từ ngày 7/9/2022 đến 31/10/2022.
Kết quả kiểm toán cho thấy, năm 2021, TKV và các đơn vị thành viên hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; thực hiện quản lý tài chính và SXKD theo Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế quản lý tài chính của TKV và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ.
Tuy nhiên, việc tuân thủ pháp luật, chế độ tài chính-kế toán, đầu tư, mua sắm và quản lý, sử dụng vốn, tiền, tài sản Nhà nước của Công ty mẹ TKV và các đơn vị được kiểm toán còn có những hạn chế, tồn tại nhất định.
Đối với nội dung quản lý nợ phải thu, phải trả, kết quả kiểm toán cho thấy còn tình trạng quản lý nợ phải thu chưa chặt chẽ để phát sinh nợ đọng. Theo báo cáo của TKV, tổng giá trị nợ phải thu khó đòi tại ngày 31/12/2021 của TKV là 279 tỷ đồng, trích dự phòng nợ phải thu 238 tỷ đồng; đối chiếu nợ phải thu, phải trả chưa đầy đủ.
Bên cạnh đó, vẫn còn trường hợp cho khách hàng nợ tiền hàng không đúng quy định theo hợp đồng, dư nợ vượt bảo lãnh thanh toán; chậm hoàn ứng theo quy định của đơn vị. Một số hợp đồng bán than tại Chi nhánh Công ty Kinh doanh than Hải Phòng của Công ty Cổ phần Kinh doanh than miền Bắc - Vinacomin chưa quy định hình thức bảo đảm thực hiện hợp đồng, chưa quy định điều khoản thưởng phạt.
Về quản lý hàng tồn kho, còn có trường hợp chưa yêu cầu đơn vị giám định cung cấp các tài liệu thể hiện số lượng mẫu được lấy, sơ đồ lấy mẫu; chưa thực hiện kiểm định/hiệu chuẩn và đánh giá sai số của thiết bị đo mức tự động tại bể chứa xăng dầu; chưa thực hiện giám định độ ẩm lượng than sau khi nhập về kho, tiềm ẩn rủi ro chất lượng, độ ẩm hàng nhập kho...
Về quản lý chi phí, giá thành sản xuất kinh doanh chưa ban hành đầy đủ các định mức kinh tế-kỹ thuật; chưa xây dựng, ban hành tỷ lệ hao hụt đối với công đoạn vận chuyển than theo từng cung độ vận chuyển, loại phương tiện, độ ẩm thực tế áp dụng; chưa cập nhật, xây dựng định mức tiêu hao nhiên liệu trên cơ sở định mức tiêu hao nhiên liệu TKV…
Đối với việc quản lý các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước, có đơn vị chưa kê khai thuế GTGT đối với hàng biếu tặng; tính thiếu thuế TNCN; chưa loại trừ một số khoản chi phí khi tính thuế TNDN; chưa giảm thu nhập tính thuế TNDN đối với khoản thu nhập từ cổ tức; trích Quỹ khoa học và Công nghệ vượt quy định.
Phê duyệt dự án khi chưa được phê duyệt quy hoạch chi tiết
Trong quản lý các khoản đầu tư tài chính dài hạn, kiểm toán cũng chỉ ra, công ty mẹ TKV còn một số khoản đầu tư tiềm ẩn rủi ro tài chính, chưa hiệu quả như: Đầu tư vào Công ty cổ phần Cromit cổ Định Thanh Hóa, Công ty CP sắt Thạch Khê...
Đối với 6 dự án được kiểm toán, kết quả kiểm toán cũng cho thấy, trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương, dự án đầu tư, còn trường hợp phê duyệt dự án khi chưa được phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500.
Đối với dự án khai thác mỏ đồng Vi kẽm, Bát Xát, Lào Cai (dự án Vi kẽm) việc xác định quy mô, giải pháp thiết kế và công nghệ khai thác chưa phù hợp, dẫn đến sau 3 năm từ ngày phê duyệt đã xác định điều chỉnh quy mô và giảm không đầu tư một số hạng mục công trình. Ngoài ra, có một số dự án lập tổng mức đầu tư chưa chính xác hoặc thiếu cơ sở.
Về công tác lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế - dự toán, công tác thiết kế Dự án khai thác hầm lò phần mở rộng Suối Lại (giai đoạn 1)-Công ty Than Hòn Gai-TKV (dự án Suối Lại) thực hiện phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công 11 hạng mục đường lò để thực hiện thi công trước khi thiết kế kỹ thuật chưa đúng quy định.
Đối với công tác dự toán, kết quả kiểm toán chỉ ra, một số gói thầu tính sai dự toán (nhưng gói thầu tự thực hiện theo đơn giá điều chỉnh hoặc do giá dự toán tính lại vẫn cao hơn giá trúng thầu và ký hợp đồng)...
Cơ quan kiểm toán cũng đánh giá về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả đối với 6 dự án: Suối Lại - Công ty Than Hòn Gai - TKV; Dự án Vi kẽm, Bát Xát, Lào Cai - Tổng công ty Khoáng sản TKV; Dự án đầu tư thiết bị phục vụ sản xuất năm 2020 - Công ty cổ phần Than Đèo Nai - Vinacomin; Dự án Trung tâm chế biến và Kho than tập trung vùng Hòn Gai - Công ty Tuyển than Hòn Gai - Vinacomin; Dự án Vận chuyển xít ngược - Công ty Tuyển than Cửa Ông - TKV và dự án Băng tải than Khe Chàm - Công ty TNHH MTV Môi trường – TKV.
Qua kiểm toán cho thấy, quá trình thực hiện đầu tư, tiến độ còn một số hạng mục, công trình thực hiện chậm so với yêu cầu của hợp đồng, dự án thực hiện chậm so với dự án đầu tư được phê duyệt và một số hạn chế tồn tại trong chấp hành chính sách, chế độ dẫn đến phải giảm thanh, quyết toán chi phí đầu tư…