Nhiều nội dung không thống nhất
Theo ông Trần Tường Khuê - Trưởng BQT Chung cư Sông Đà Nha Trang, nhiều hạng mục thuộc diện tích sử dụng chung tại chung cư chưa được Công ty Cổ phần Sông Đà Nha Trang bàn giao cho BQT. Cụ thể, nhà sinh hoạt cộng đồng rộng 150m2 được chủ đầu tư sử dụng một nửa, còn lại BQT sử dụng; trạm gas ngay cổng chung cư rộng 24m2 đã bị chủ đầu tư sửa thành ki-ốt, cho thuê 50 năm; diện tích sân sau nhà cộng đồng đã xây dựng thành nhà 2 tầng không có giấy phép xây dựng; tầng hầm để xe rộng 2.135m2 cũng chưa bàn giao… Ngoài ra, tại tầng hầm kỹ thuật, chủ đầu tư đã xây dựng văn phòng và căn hộ cho thuê trái phép, không đúng công năng.
Phần ki-ốt chủ đầu tư biến tấu từ trạm gas của chung cư rồi cho thuê 50 năm.
Trong khi đó, bà Lê Thị Hồng Minh - Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Cổ phần Sông Đà Nha Trang khẳng định, công ty đang quản lý nhà sinh hoạt cộng đồng theo hợp đồng mua bán nên sẽ không bàn giao cho BQT chung cư. Đối với phần diện tích sân sau nhà cộng đồng, công ty cũng không bàn giao vì không thuộc danh mục tài sản chung theo hợp đồng xây dựng. Đối với tầng hầm kỹ thuật, chủ đầu tư khẳng định đã xây đúng thiết kế được duyệt, chỉ lắp vách kính chứ không thay đổi kết cấu. Công ty sẽ bàn giao 2 phòng chứa thiết bị kỹ thuật cho BQT, còn lại sẽ thuộc quản lý của chủ đầu tư. Qua rà soát 162 hợp đồng mua bán, công ty thấy có 1 hợp đồng ghi diện tích tầng hầm để xe là diện tích sử dụng chung, vì vậy công ty cũng không bàn giao diện tích này. Công ty chỉ chịu trách nhiệm xử lý hợp đồng thuê ki-ốt và sớm bàn giao cho BQT diện tích này.
Sau nhiều lần đòi phần diện tích sử dụng chung không được, ngày 1-7, BQT Chung cư Sông Đà Nha Trang đã có đơn kiến nghị Chánh Thanh tra Bộ Xây dựng có hướng giải quyết cấp bách, dứt điểm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cư dân chung cư.
Xây dựng trái phép trong chung cư
Mới đây, ông Lê Tiến Vĩnh - Trưởng phòng Quản lý đô thị (QLĐT) TP. Nha Trang chủ trì buổi làm việc với chủ đầu tư, BQT Chung cư Sông Đà Nha Trang và đại diện Sở Xây dựng, UBND phường Vĩnh Hải để giải quyết nội dung tranh chấp. Sau khi nghe ý kiến các bên, Phòng QLĐT thành phố yêu cầu Công ty Cổ phần Sông Đà Nha Trang khẩn trương bàn giao phần diện tích ki-ốt cho BQT.
Ngày 16-6, ông Lê Đại Dương - Phó Chủ tịch UBND TP. Nha Trang ký văn bản gửi Sở Xây dựng với nội dung, căn cứ Khoản 1, Điều 43 Thông tư số 02 ngày 15-2-2016 của Bộ Xây dựng về quản lý sử dụng nhà chung cư, các tranh chấp về quyền sở hữu nhà chung cư được giải quyết trên cơ sở thương lượng, hòa giải theo quy định của pháp luật về nhà ở. Trường hợp không thương lượng, hòa giải thì yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đối với phần diện tích không thống nhất bàn giao (nhà sinh hoạt cộng đồng, tầng hầm) thuộc tranh chấp dân sự giữa hợp đồng kinh tế 2 bên, khi không giải quyết được thì các bên có thể đề nghị Tòa án nhân dân giải quyết.
Theo tài liệu phóng viên có được, cơ quan chức năng đã phát hiện và lập biên bản đối với các công trình xây dựng trái phép trong dự án Chung cư Sông Đà Nha Trang từ năm 2019. Cụ thể, trong văn bản gửi các hộ dân Chung cư Sông Đà Nha Trang vào ngày 9-9-2019, Sở Xây dựng xác nhận: “Phía sau bên phải tòa nhà có công trình nhà 2 tầng, tường gạch, tầng 1 làm nhà vệ sinh, tầng 2 là sàn thép, đổ bê tông rộng hơn 75m2. Công trình này không có giấy phép xây dựng, đề nghị UBND phường Vĩnh Hải kiểm tra, xử lý. Ngoài ra, chủ đầu tư còn cho xây dựng một bể bơi và nhà hàng trái phép trên đất quy hoạch giao thông phía sau chung cư. UBND TP. Nha Trang khẳng định, đối với phần diện tích xây dựng không có giấy phép, Phòng QLĐT sẽ phối hợp với Sở Xây dựng để kiểm tra, xác minh và xử lý theo quy định.
Theo ông Lê Ngọc Thạch - Phó Chánh Thanh tra Sở Xây dựng, chủ đầu tư đã thông báo thu hồi phần diện tích ki-ốt ngay cổng Chung cư Sông Đà Nha Trang. Tuy nhiên, ngay sau đó, bà Phạm Thị Hợp (người bị chấm dứt hợp đồng thuê ki-ốt) đã có đơn gửi Thanh tra Sở Xây dựng, UBND TP. Nha Trang, Phòng QLĐT thành phố. Theo nội dung đơn, ngày 22-1-2018, bà Hợp ký hợp đồng với Công ty Cổ phần Sông Đà Nha Trang “cho thuê căn-tin để kinh doanh thương mại”. Hợp đồng ghi thời hạn cho thuê là 50 năm, giá hợp đồng là 30 triệu đồng/năm. Ngay sau khi ký hợp đồng, bà Hợp đã thanh toán 100% giá trị hợp đồng cho công ty. Trong hợp đồng, công ty cam kết, trường hợp công ty tự ý chấm dứt hợp đồng thì sẽ thông báo cho bà Hợp trước 30 ngày để bà thanh lý hết số hàng hóa đã nhập về; đồng thời, đền bù số tiền tương đương 1 năm tiền thuê mặt bằng, hoàn trả lại số tiền còn lại tương đương với thời gian người thuê chưa sử dụng. Ngày 16-6, bà Hợp nhận được thông báo yêu cầu bàn giao lại mặt bằng ki-ốt trước ngày 4-7. Công ty chưa thực hiện các nghĩa vụ cam kết khi đơn phương chấm dứt hợp đồng.