Doanh nghiệp sẽ tiếp tục khó vay vốn trong năm 2023

Theo TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, doanh nghiệp bất động sản nói riêng và các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế nói chung sẽ tiếp tục gặp khó khăn trong việc vay vốn tín dụng ngân hàng do dư địa của chính sách tiền tệ đã bị thu hẹp.

Một trong những nguyên nhân quan trong khiến việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong năm nay được TS. Cấn Văn Lực cho rằng, dư địa chính sách tiền tệ hiện đã bị thu hẹp. 

Tính đến hết tháng 11/2022, Ngân hàng Nhà nước đã phải tăng lãi suất 2 đợt (1%/đợt) để ổn định tỷ giá, trong khi các công cụ khác gần như đã sử dụng hết dư địa. Dự trữ ngoại hối hiện nay vừa mức khuyến nghị của IMF (3 tháng nhập khẩu). 

Cùng với đó, theo ông Lực, việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng/giảm sẽ không đạt hiệu quả như kỳ vọng vì các ngân hàng thương mại còn phải tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo Thông tư 22/2019 của Ngân hàng Nhà nước và biện pháp này thường áp dụng khi nền kinh tế gặp các cú sốc lớn. 

Biên độ giao dịch tỷ giá trung tâm cũng đã nới lên mức 5%. Do vậy, với khả năng FED tiếp tục tăng lãi suất 50% trong tháng 12/2022 và quý I/2023, áp lực lãi suất và tỷ giá tăng còn khá lớn.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đang tiếp tục duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong năm 2022-2023 để kiểm soát lạm phát mục tiêu và thanh khoản hệ thống ngân hàng, trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh ảm đạm, giải ngân đầu tư công còn chậm, khiến việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn khó khăn.

Yếu tố thứ hai, theo ông Lực, dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Năm 2023, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng. 

Dự báo, năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Thứ ba, việc sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng đã cơ bản được loại bỏ, tuy nhiên hiện tượng cổ đông, nhóm cổ đông lớn có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Các tổ chức tín dụng luôn đảm bảo tuân thủ các tỷ lệ an toàn (bao gồm hạn chế, giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn mua cổ phần) tại Thông tư 22/2019 của Ngân hàng Nhà nước, nhưng tình trạng công ty liên kết, có liên quan hoạt động tinh vi, có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Mặc dù khó có thể đưa ra bằng chứng xác thực về hành vi này nhưng những vụ việc vi phạm của một số tập đoàn bất động sản vừa qua đã bộc lộ tính chất liên quan này.

Thứ tư, thanh khoản của hệ thống ngân hàng không còn dồi dào như 2 năm qua. Sau giai đoạn giảm liên tiếp từ mức 34,5% năm 2016 xuống 24% năm 2021, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống tăng dần lên mức 25,2% vào tháng 6/2022; tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động vốn tăng từ 72,1% năm 2021 lên 74,1% vào tháng 6/2022. Đồng thời, tài sản mang tính thanh khoản cao như tiền gửi của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước giảm,

Tín dụng tăng cao trong năm 2022 so với năm 2020-2021 trong xu hướng phục hồi của nền kinh tế. Tính đến ngày 30/11/2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,2%, cao hơn mức 11,5% cùng kỳ năm 2021. 

Theo ông Lực, lý do Ngân hàng Nhà nước điều tiết thận trọng tăng trưởng tín dụng năm 2022 vì hạn mức tăng trưởng tín dụng là giải pháp kiểm soát cung tiền, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Cùng với đó là lo ngại rủi ro thanh khoản hệ thống, ảnh hưởng mục tiêu ổn định lãi suất và an toàn hệ thống.

Mặt khác, huy động vốn năm 2022 của tổ chức tín dụng tăng chậm lại so với năm 2020- 2021, do dòng tiền đổ vào sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và trang trải chi phí đầu vào tăng. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 11/2022, huy động vốn của các tổ chức tín dụng ước tăng 5,5%, thấp hơn cùng kỳ năm trước (6%); theo đó, M2 chỉ tăng khoảng gần 7%, thấp so với mức 9% cùng kỳ năm 2021. 

Nguyên nhân chính của việc huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng thấp bao gồm: Một là lạm phát, giá cả và chi phí tăng, doanh nghiệp cần nhiều vốn hơn để trang trải chi phí tăng thêm; lãi suất và tỷ giá tăng cũng làm tăng chi phí tài chính của doanh nghiệp. Hai là, vốn tín dụng ngân hàng kiểm soát mức tăng 15,5% trong khi phát hành tổ chức tín dụng khó khăn hơn, buộc doanh nghiệp dùng vốn tự có nhiều hơn. 

Ba là giải ngân đầu tư công chậm, khiến vòng quay tiền chậm, nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp tăng. Bốn là thị trường bất động sản, chứng khoán trầm lắng và đang trong giai đoạn lành mạnh hóa, cũng kéo theo một phần vốn trên hai thị trường này bị tồn đọng. Và năm là dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chỉ tăng nhẹ trong điều kiện lãi suất USD tăng và thị trường chứng khoán suy giảm, môi trường đầu tư rủi ro trăng.

Cuối cùng, theo ông Lực, việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp sẽ gặp khó trong năm nay là do tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn – nguồn vốn chi phí thấp đang có xu hướng giảm trong năm 2022. Lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn tăng nhanh và trở nên hấp dẫn hơn, chênh lệch giữa không kỳ hạn, kỳ hạn ngắn và kỳ hạn dài mở rộng, dòng tiền nhàn rỗi đã chuyển dịch từ gửi không kỳ hạn sang gửi tiết kiệm có kỳ hạn để hưởng lãi suất cao hơn. Đồng thời, huy động vốn khó khăn vì người dân chuyển sang tiêu dùng và doanh nghiệp chuyển vào sản xuất - kinh doanh, trang trải chi phí như nêu trên. 

Trước bối cảnh việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và những rủi ro, thách thức đối với thị trường tài chính Việt Nam 2023, ông Lực cho rằng, Chính phủ cần tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. 

Trong đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, cân bằng giữa kiểm soát và thúc đẩy tăng trưởng, giữa lãi suất và tỷ giá...v.v.

Chính phủ cần triển khai kịp thời và hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất 2% quy mô 40 nghìn tỷ đồng nhằm hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, tăng tính lan tỏa, giảm áp lực vốn tín dụng, giảm nợ đọng. Chính phủ cần có đề án, kế hoạch cụ thể về giải quyết bài toán vốn cho doanh nghiệp, hộ gia đình vừa đảm bảo phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội, vừa đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống tài chính – bất động sản; trong đó, cần sớm giải quyết rủi ro trái phiếu doanh nghiệp, nhất là nhóm doanh nghiệp bất động sản.

Đối với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan, ông Lực cho rằng, cần đẩy nhanh tiến độ ban hành, tháo gỡ vướng mắc văn bản pháp lý hỗ trợ và giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc chương trình phục hồi. Việc ban hành kịp thời những văn bản này sẽ có tác động kép, vừa thúc đẩy đa dạng hóa nguồn thu cho các tổ chức tài chính trong bối cảnh lãi suất cao, nguồn cung tín dụng không nhiều, vừa tăng tốc vòng quay của tiền, giúp tăng thanh khoản cho hệ thống, giảm áp lực của việc tăng lãi suất đến nền kinh tế.

Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các tổ chức tài chính và thị trường tài chính (theo các đề án đã ban hành); lưu ý đảm bảo thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụng, an toàn của các công ty chứng khoán, hạn chế tối đa tác động lan truyền (ngân hàng - chứng khoán – bất động sản). 

Trong đó, cần tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại có thể tăng vốn, đảm bảo an toàn hoạt động, theo yêu cầu của chương trình phục hồi và đảm bảo năng lực cung ứng vốn cho nền kinh tế.