Ngân hàng tuần qua: Tranh cãi triển vọng thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tín dụng bất động sản tăng gần 15%

Các chuyên gia đưa ra các góc nhìn đánh giá khác nhau về thị trường trái phiếu doanh nghiệp sau khi Nghị định 65/2022/NĐ-CP được ban hành, tín dụng bất động sản tăng mạnh, sắp tăng vốn cho big 4...là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Nhiều doanh nghiệp bất động sản lo phải rời cuộc chơi trái phiếu, Bộ Tài chính nói gì?

 

Không siết chặt điều kiện phát hành song với các quy định chặt chẽ hơn về công bố thông tin, hồ sơ phát hành, phương thức chào bán trái phiếu, nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp…, Nghị định 65 dự kiến sẽ khiến nhiều doanh nghiệp bất động sản khó có thể tiếp tục phát hành trái phiếu.

ong-nguyen-hoang-duong-pho-vu-truong-vu-tai-chinh-cac-ngan-hang-va-to-chuc-tai-chinh-bo-tai-chinh-1664772094.jpg

Ông Nguyễn Hoàng Dương, Phó vụ trưởng, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính, Bộ Tài chính

Trước các lo ngại của thị trường, ông Nguyễn Hoàng Dương, Phó vụ trưởng, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính, Bộ Tài chính khẳng định, Nghị định 65 không áp đặt thêm các điều kiện mới với phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, chỉ tăng cường các điều kiện về công bố thông tin, giúp mọi việc được minh bạch hơn.

Tất nhiên, để đáp ứng các yêu cầu mới, doanh nghiệp phát hành phải triển khai thêm một số công việc, tăng thêm chi phí để phát hành. Nhưng, đây là điều cần thiết để xây dựng một thị trường trái phiếu minh bạch hơn trong tương lai.

“Với các quy định như vậy, những doanh nghiệp nào đã công bố thông tin một cách minh bạch vẫn có thể tiếp tục phát hành trái phiếu để huy động được, nhất là đối với những doanh nghiệp có những dự án tốt, có sức khỏe tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh tốt. Một số doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể coi trái phiếu riêng lẻ là kênh huy động vốn duy nhất. Những lúc như thế này, doanh nghiệp sẽ phải tính toán các kênh huy động hiệu quả khác”, ông Dương khuyến nghị.

Về các kênh huy động vốn khác, theo ông Dương, thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ gỡ các thủ tục về phát hành trái phiếu ra công chúng, đảm bảo những doanh nghiệp có đáp ứng đủ điều kiện phát hành ra công chúng sẽ được nhanh chóng phát hành.

Hiện nay, trái phiếu doanh nghiệp phát hành ra công chúng chỉ chiếm 5% tổng giá trị phát hành, nguyên nhân là thủ tục phát hành rườm rà, thời gian phê duyệt hồ sơ quá lâu (có khi kéo dài đến hàng năm) gây khó khăn cho doanh nghiệp trong chủ động kế hoạch sản xuất kinh doanh. Chưa kể, các cán bộ khi phê duyệt hồ sơ cũng có tâm lý bất an, sợ trách nhiệm khiến khâu phê duyệt các kéo dài.

Ông Dương thừa nhận, đúng là hiện nay có tâm lý e ngại về trách nhiệm của cán bộ nhà nước trong việc thẩm định phát hành ra công chúng. Lãnh đạo Bộ Tài chính cũng chỉ đạo rà soát sửa đổi Luật Chứng khoán. Theo đó, sẽ quy định rất rõ trách nhiệm thẩm định của cơ quan quản lý nhà nước đến đâu. Việc ghi rõ trong luật về việc cán bộ thẩm định, cơ quan thẩm định chịu trách nhiệm đến mức nào sẽ giúp cán bộ thẩm định bớt lo lắng.

Theo ông Dương, việc xảy ra trái phiếu mất khả năng thanh toán (default) nhiều khi không phải lỗi do cán bộ thẩm định kém.

Cán bộ thẩm định đưa ra quyết định dựa trên các báo cáo tài, số liệu do doanh nghiệp cung cấp. Thế nhưng, thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh muôn hình vạn trạng, có thể doanh nghiệp thời điểm phát hành trái phiếu hoạt động rất tốt nhưng vì điều kiện thị trường 5,6 tháng sau trở nên xấu đi thì cơ quan thẩm định cũng không thể lường trước được.

Bên cạnh giải pháp thúc đẩy phát hành trái phiếu ra công chúng, một giải pháp nữa, theo ông Dương là phát triển các nhà đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ đầu tư, nhằm tăng nguồn lực đầu tư vào thị trường trái phiếu.

“Chúng ta đã đưa ra được chuẩn về định mức tín nhiệm thì có thể tận dụng để sửa đổi các quy định hiện hành. Ví dụ như thay vì quy định các quỹ đầu tư chỉ được đầu tư một tỷ lệ nhất định vào trái phiếu thì bây giờ có thể căn cứ theo xếp hạng tín nhiệm. Kể cả với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, cũng có thể cho phép các công ty này có thể được đầu tư một tỷ lệ nào đó vào trái phiếu được định hạng ở mức AAA hoặc ở mức cao. Các quy định này vừa tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các quỹ đầu tư, vừa tạo ra một lực cầu mới trên thị trường trái phiếu”, ông Dương nói.

Với các giải pháp tổng thể này, đại diện Bộ Tài chính hy vọng trong trung, dài hạn sẽ giải quyết được vấn Góc nhìn khác về Nghị định 65 phát hành trái phiếu riêng lẻ

 

Nâng chuẩn và “nắn” vốn

 

Do lãi suất điều hành tăng cùng room tín dụng hạn hẹp, nên nhiều doanh nghiệp hiện đặt kỳ vọng vào thị trường trái phiếu.

Giới chuyên gia đánh giá khá tích cực về Nghị định số 65/2022/NĐ-CP mà Chính phủ vừa ban hành, bởi có nhiều nội dung “thoáng” hơn so với dự thảo công bố trước đó, trong khi vẫn nâng cao được tính minh bạch cũng như nâng chuẩn nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Với các quy định của Nghị định số 65/2022/NĐ-CP, phía cung (nhà phát hành) không bị áp thêm điều kiện phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Song đúng như đánh giá của không ít chuyên gia, phía cầu (bên mua) lại bị co hẹp đáng kể. Nhà đầu tư cá nhân muốn mua trái phiếu không những phải nắm giữ danh mục ít nhất 2 tỷ đồng, mà còn phải duy trì con số này bình quân trong 180 ngày liền kề. Hình thức mua bán “chui” trái phiếu qua các hợp đồng góp vốn, ủy thác đầu tư cũng bị chặn.

Số liệu của Bộ Tài chính cho thấy, cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp 7 tháng đầu năm có một số điểm đáng chú ý.

Cụ thể, thị trường này gồm 46,14% nhà đầu tư là các tổ chức tín dụng; 22,43% là các công ty chứng khoán; hơn 10% là nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp. Tuy vậy, trên thị trường thứ cấp, nhà đầu tư cá nhân đang nắm giữ gần 33% lượng trái phiếu riêng lẻ. Chính vì vậy, việc nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp và chặn cửa mua bán chui sẽ khiến lượng nhà đầu tư cá nhân đáp ứng được yêu cầu giảm mạnh. Ngoài ra, sức cầu của bên mua lớn nhất thị trường hiện nay (là các tổ chức tín dụng) cũng suy yếu, bởi hầu hết ngân hàng đã cạn room tín dụng.

Việc sụt giảm hai nguồn cầu lớn (tổ chức tín dụng và cá nhân) trong khi thị trường chưa xuất hiện các “tay to” mới để bù đắp sẽ khiến sân chơi trái phiếu doanh nghiệp chưa thể sớm sôi động trở lại.

Ở góc độ khác, định hướng của nhà quản lý khi nâng chuẩn nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là rất đúng đắn, có thể giúp thị trường trở nên chuyên nghiệp hơn, đa dạng hóa chủ thể tham gia thị trường. Ở đây, việc nắn vốn đầu tư trái phiếu chảy qua quỹ và các nhà đầu tư tổ chức vừa an toàn cho nhà đầu tư, vừa thuận tiện cho cơ quan quản lý. Cơ quan quản lý nhà nước khi cần chấn chỉnh cũng sẽ có địa chỉ cụ thể để “nắn”, nhanh hơn so với việc nâng cao nhận thức của hàng vạn nhà đầu tư cá nhân.

Mặc dù vậy, Nghị định 65/2022/NĐ-CP mới chỉ nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp, mà chưa có cơ chế phát triển các quỹ đầu tư trái phiếu, trong khi các cơ chế về quỹ hiện còn bất cập. Đơn cử, theo quy định hiện hành, nhà đầu tư mua bán chứng khoán chỉ cần nộp thuế thu nhập cá nhân 0,1% tổng giá trị mua bán, song nếu mua chứng chỉ quỹ của Quỹ Trái phiếu và có lãi, thì sẽ phải nộp thuế 5%. Các quỹ, nếu có lãi cũng sẽ lại phải nộp thuế 20% cho chênh lệch mua bán đó.

Với các quỹ nhận ủy thác đầu tư, nhà đầu tư muốn thông qua quỹ để mua trái phiếu riêng lẻ cũng phải đáp ứng tiêu chuẩn là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Hơn nữa, bản thân các quỹ này cũng chỉ được giải ngân khoảng 10% tổng giá trị quỹ vào trái phiếu.

Các cơ chế bất cập trên khiến ngành quỹ chưa thể mạnh tay đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới. Nói cách khác, muốn các quỹ đầu tư trái phiếu phát triển, thì cơ chế cho ngành quỹ phải thay đổi. Ngoài ra, muốn thị trường trái phiếu phát triển, Chính phủ cần nghiên cứu cho phép nhiều nhà đầu tư mới, giàu tiềm năng tham gia thị trường, đặc biệt là quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Hiện tại, các quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội chỉ được đầu tư vào trái phiếu chính phủ, cho ngân sách nhà nước vay; gửi tiền, mua trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi tại các ngân hàng thương mại được xếp hạng cao…, chứ chưa được phép đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP đã đi đúng hướng khi siết nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, giảm thiểu rủi ro cho thị trường. Thế nhưng, để có kênh xả lũ cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thì bên cạnh nỗ lực thanh lọc những nhà đầu tư cá nhân không chuyên nghiệp, cần có cơ chế “mở” cho các quỹ. Đồng thời, phải tạo sân chơi cho phép nhiều “tay chơi” mới tham gia thị trường

Chỉ khi hấp dẫn được nhiều tay chơi lớn, thị trường trái phiếu mới có thể phát triển mạnh, thu hút được nhiều nguồn lực trong dân, từ đó mở thêm cửa tiếp cận vốn cho doanh nghiệp.

 

Góc nhìn khác về thị trường trái phiếu

 

Bài viết của GS-TS. Trần Ngọc Thơ (Đại học Kinh tế TP.HCM) đưa ra góc nhìn khác về thị trường trái phiếu, khác với nhận địn của Công ty Xếp hạng tín nhiệm FiinGroup trước đó cho rằng, “đây là một hướng đi đúng đắn và phù hợp với thông lệ quốc tế về trái phiếu”.

Theo GS.TS Trần NGọc Thơ, trong chiến lược phát triển thị trường vốn, Chính phủ luôn nhấn mạnh phải phát triển thị trường chứng khoán để huy động vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế, từng bước giảm sức ép cung cấp vốn của hệ thống ngân hàng. Từ định hướng đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các quy định giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn để ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng của thị trường tiền tệ, trung gian thanh toán và dịch vụ ngân hàng.

Chủ thể quan trọng nhất của thị trường vốn là Bộ Tài chính đã tham mưu xây dựng và Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán (sửa đổi), làm cơ sở để ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, ngày 31/12/2020 (gọi tắt là Nghị định 153) nhằm tạo khung pháp lý phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), tạo thêm kênh huy động vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế.

Sau Nghị định 153, kênh TPDN đã phát triển mạnh. Tổng dư nợ TPDN đến cuối năm 2021 ước đạt gần 1,4 triệu tỷ đồng (trong đó có khoảng 600.000 tỷ đồng của các doanh nghiệp tài chính: ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng khoán). Tổng huy động qua kênh TPDN đạt gần 12% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Do phát triển nhanh và quy định của pháp luật còn những hạn chế nhất định, nên đã xuất hiện rủi ro từ 4 cấu trúc quan trọng nhất trong hệ sinh thái của thị trường trái phiếu.

Thứ nhất, là Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán nhà nước, mặc dù liên tục phát đi những cảnh báo trước những rủi ro về sự phát triển quá nóng của kênh trái phiếu riêng lẻ, nhưng không thể không thừa nhận, những đổ vỡ trong thời gian qua là do sự thiếu giám sát và răn đe kịp thời của cơ quan quản lý.

Thứ hai, về nguồn cung trái phiếu phát hành riêng lẻ: nhiều tổ chức phát hành là doanh nghiệp công cụ (không có doanh thu, gần như không hoạt động, không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo được định giá chưa hợp lý; doanh nghiệp mới thành lập và vốn chủ sở hữu chỉ là vốn khống cũng mặc sức phát hành trái phiếu riêng lẻ; chất lượng các báo cáo tài chính doanh nghiệp, mặc dù được kiểm toán, nhưng rất không đáng tin cậy.

Thứ ba, về nhóm nhà đầu tư: do một tỷ lệ lớn TPDN phát hành riêng lẻ được phân phối qua hệ thống ngân hàng, nên nhiều nhà đầu tư không hiểu đầy đủ rủi ro, mà cứ nghĩ an toàn như gửi tiền tiết kiệm ngân hàng; nhiều nhà đầu tư hầu như không biết gì về tổ chức phát hành, không tìm hiểu, hoặc không được cung cấp đầy đủ thông tin về tổ chức phát hành, không đủ hiểu biết để đánh giá chất lượng trái phiếu, khả năng trả lãi và trả lại vốn gốc của tổ chức phát hành.

Thứ tư, là nhóm các tổ chức trung gian. Nhiều tổ chức trung gian khi thực hiện cung cấp dịch vụ liên quan đến phát hành trái phiếu riêng lẻ có thể vì lợi ích mà không thực hiện đúng, đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong công tác thẩm định hồ sơ, dẫn đến chào bán các TPDN phát hành riêng lẻ chất lượng kém cho nhà đầu tư.

Từ những bất cập trên, Bộ Tài chính đã rà soát, sửa đổi Nghị định 153 và trình Chính phủ ban hành mới Nghị định số 65/2022/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 16/9/2022 (gọi tắt là Nghị định 65). Tuy nhiên, tư duy bao bọc, cấm đoán chi phối phần lớn Nghị định 65.

Mục đích phát triển thị trường trái phiếu là để giảm gánh nặng huy động vốn và cho vay khỏi hệ thống ngân hàng. Nhưng có khả năng, tầng tầng lớp lớp quy định về phía cầu và phía cung của thị trường khiến mục tiêu này khó đạt. Nghị định 65 được thiết kế theo cách “tung một mẻ lưới” tóm gọn hết cá lớn, cá bé. Một ví dụ nhỏ trong số đó là quy định tăng mệnh giá trái phiếu từ 100.000 đồng lên 100 triệu đồng.

Mục đích phát triển thị trường trái phiếu là để giảm gánh nặng huy động vốn và cho vay khỏi hệ thống ngân hàng. Nhưng có khả năng, tầng tầng lớp lớp các quy định về phía cầu và phía cung của thị trường khiến mục tiêu này khó đạt được.

Điều này có thể đặt những người tiết kiệm ở phân khúc ngách, chẳng hạn, họ đang có sổ tiết kiệm vài chục triệu đồng, thì chỉ còn đường duy nhất đem tiền gửi ngân hàng. Có lẽ, cơ quan quản lý có ý định đưa những người tiết kiệm phân khúc ngách đem tiền đầu tư vào các định chế đầu tư chuyên nghiệp khác, giống các nền kinh tế phát triển? Đây là ước mơ quá xa vời. Điều mà ngay cả những nước có thị trường trái phiếu phát triển mạnh hàng đầu khu vực như Malaysia còn chưa làm được.

trai-phieu-doanh-nghiep-1664772142.jpg

Vấn đề lớn nhất của Nghị định 65 là quan điểm của cơ quan quản lý chưa hợp lý và phù hợp với bối cảnh, định hướng khuyến khích phát triển thị trường chứng khoán, mà cứ thấy có rủi ro là siết toàn diện, với danh nghĩa bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư cá nhân.

Bảo vệ nhà đầu tư nhỏ lẻ, nhưng vẫn phải cho họ cơ hội lựa chọn kênh đầu tư và tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường. Trong một thị trường phát triển cao, quy định như Nghị định 65 có thể phù hợp. Nhưng ở giai đoạn phát triển ban đầu như thị trường Việt Nam, thì cần tính linh hoạt nhiều hơn.

Ở nhiều nền kinh tế mới nổi, cơ quan quản lý thị trường chứng khoán quy định rất rõ năng lực của tổ chức phát hành, các yêu cầu công bố thông tin, các tiêu chí đăng ký và phê duyệt phát hành. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các quy định phát hành riêng lẻ được điều chỉnh cho phù hợp với các loại hình nhà đầu tư khác nhau.

Chẳng hạn, nhà đầu tư tổ chức, cá nhân “thông thái” có giá trị ròng cao sẽ tự chịu trách nhiệm là chính (không yêu cầu xếp hạng tín nhiệm bắt buộc đối với phát hành riêng lẻ), phần còn lại là các nhà đầu tư có nguồn tiết kiệm thấp sẽ nhận được mức độ bảo vệ cao hơn. Dựa trên các cấp độ chuyên môn lành nghề và điều kiện khác nhau, yêu cầu các mức độ bảo vệ cũng sẽ khác nhau đối với từng nhóm nhà đầu tư.

Trong khi đó, để thuận tiện cho cơ quan quản lý, Nghị định 65 lại thiết kế chính sách theo hướng tất cả nhà đầu tư đều được bảo vệ như nhau và tất cả công ty phát hành đều “xấu” giống nhau (one-size-fits-all).

Chẳng hạn, đã là nhà đầu tư chuyên nghiệp, mà cứ 3 tháng hoặc 12 tháng phải xác nhận lại 1 lần. Như vậy, sẽ xảy ra tình trạng hôm nay là nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhưng sang ngày mai trở thành nghiệp dư.

Những điểm nêu trên không hề giống như đánh giá của FiinGroup, rằng Nghị định 65 phù hợp với thông lệ quốc tế về trái phiếu. Thị trường trái phiếu đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với thị trường cổ phiếu, nên trên thế giới không hề tồn tại cái gọi là “thông lệ quốc tế” về trái phiếu. Nếu có, chỉ có thể gọi là “thông lệ tốt” cho từng khu vực thị trường.

Từ những bất cập này, TS.TS Trần Ngọc Thơ đề xuất , trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước hiện nay, về mặt chiến lược, Chính phủ cần chuẩn bị kịch bản ứng phó kịp thời. Rủi ro bất ổn định hệ thống tài chính sẽ rất lớn trong bối cảnh dư nợ của các ngân hàng thương mại đã xấp xỉ 12 triệu tỷ đồng, bằng 125% GDP. Nền kinh tế cần thoát ra càng sớm càng tốt “bẫy tín dụng ngân hàng” bằng việc thúc đẩy phát triển nhanh, linh hoạt, an toàn và hiệu quả thị trường vốn.

Sau đây là một số giải pháp trước mắt đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ.

Thứ nhất, về phía các cơ quan quản lý thị trường, để phát triển thị trường trái phiếu, các cơ quan quản lý cần nhận thức “đúng” tầm quan trọng tính toàn vẹn của thị trường trái phiếu. Thị trường vốn không chỉ là nơi để khớp cung và cầu chứng khoán. Thị trường trái phiếu muốn trưởng thành và phát triển, đương nhiên, phải trải qua nhiều thất bại và khủng hoảng. Các biện pháp giảm thiểu khiếm khuyết của thị trường là cần thiết để những người tham gia thị trường có thể tự tin giao dịch.

Thị trường cần phải công bằng, lành mạnh và nó không được cho phép bất kỳ hành vi thao túng, thông tin sai lệch hoặc giao dịch nội gián nào. Tất cả giao dịch phải được thực hiện an toàn và việc chuyển nhượng quyền sở hữu thông qua thị trường phải được bảo vệ. Khi có “hỏng hóc”, phải giải quyết công bằng, nhanh chóng. Các quy định phải được thể chế hóa và thấm sâu vào thị trường, chứ không thể thay đổi bằng hết nghị định này đến nghị định khác.

Thứ hai, về phía cung: rà soát các quy định theo hướng tăng chất lượng hàng hóa. Khuyến nghị nên phân nhóm:

- Doanh nghiệp có quy mô lớn, có thương hiệu, uy tín, công ty đại chúng, công ty niêm yết khi phát hành riêng lẻ nên được phép chào bán cho nhà đầu tư cá nhân.

- Doanh nghiệp công cụ (bình phong): khi phát hành trái phiếu riêng lẻ tuyệt đối không được chào bán, phân phối cho nhà đầu tư cá nhân.

Thứ ba, về phía cầu: tạo cơ hội công bằng cho các nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận và đầu tư, tương tự các kênh đầu tư khác (cổ phiếu, bất động sản). Do vậy, cần xem lại khái niệm nhà đầu tư chuyên nghiệp, đặc biệt là quy định giá trị danh mục chứng khoán niêm yết bình quân 6 tháng gần nhất tối thiểu 2 tỷ đồng và giấy xác nhận nhà đầu tư chuyên nghiệp chỉ có giá trị 3 tháng.

Thứ tư, về các tổ chức trung gian: tăng cường vai trò, trách nhiệm và chế tài mang tính răn đe cao nhất đối với các tổ chức trung gian. Riêng đối với xếp hạng tín nhiệm, trong khu vực ASEAN +3 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), ngoại trừ Việt Nam, không có nước nào quy định bắt buộc xếp hạng tín nhiệm phát hành riêng lẻ. Cần khuyến khích sử dụng các tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế để tăng tính cạnh tranh với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nội địa. Thậm chí, có thể ban hành luật xếp hạng tín nhiệm để tránh tình trạng mua bán xếp hạng tín nhiệm tràn lan như Trung Quốc đang trải qua.

 

Thanh lọc nhà phát hành trái phiếu, bảo vệ nhà đầu tư nhỏ lẻ

 

Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SB Law nhận định, với các quy định mới, chỉ nhà phát hành thực sự có năng lực mới có thể phát hành trái phiếu, song các quy định này là cần thiết để minh bạch thị trường, bảo vệ nhà đầu tư.

Theo luật sư Hà, Nghị định 65/2022/NĐ-CP sẽ tháo gỡ nút thắt huy động vốn thông qua TPDN. Đây sẽ là giải pháp nhằm ổn định hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam và bắt đầu tiến trình cơ cấu lại các thị trường cổ phiếu, trái phiếu và phái sinh theo hướng chuyên nghiệp hóa, theo lộ trình được Chính phủ phê duyệt.

Quy định cụ thể về thị trường giao dịch TPDN riêng lẻ giúp phát triển đồng bộ các thị trường tài chính ở Việt Nam. Nghị định 65/2022/NĐ-CP giúp giải quyết các vấn đề tồn đọng để giảm thiểu các rủi ro cho doanh nghiệp và nhà đầu tư; thúc đẩy việc hình thành các định chế đầu tư dài hạn chuyên nghiệp trên thị trường.

Công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm trên thị trường đã được quy định rõ ràng, minh bạch hơn. Đây là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm thị trường hoạt động công khai, minh bạch, công bằng, có kỷ cương, kỷ luật, qua đó giữ và củng cố lòng tin của nhà đầu tư với thị trường. Đồng thời, tăng cường công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong điều hành và quản lý giám sát thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu với thị trường tiền tệ, tín dụng ngân hàng và chủ động thông tin tuyền truyền, định hướng thị trường.

Nghị định 65 đã bổ sung cách thức xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp nhằm hạn chế tối đa nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ gian lận để mua TPDN riêng lẻ. Các nhà đầu tư cá nhân trước khi tham gia thị trường cũng cần tự đánh giá bản thân phải có đủ năng lực để đánh giá được đầy đủ rủi ro.

Mọi hành vi “lách” các quy định của pháp luật để mua bán chui TPDN không chỉ khiến nhà đầu tư chịu nhiều rủi ro, tổn thất khi mua trái phiếu (có thể mất toàn bộ tiền đầu tư), mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ thực hiện thanh, kiểm tra để xử lý nghiêm minh những hành vi lách quy định này của pháp luật. Do đó, các quy định của Nghị định/2022/NĐ-CP có tác dụng rất lớn trong ngăn chặn hiện tượng lách luật mua bán chui TPDN trong thời gian qua.

Về sức cầu thị trường trái phiếu thời gian tới, theo ông Hà, sẽ phụ thuộc rất lớn vào những yếu tố sau

Thứ nhất, hành lang pháp lý liên quan để phát triển thị trường TPDN cần phải an toàn, ổn định, bền vững. Cụ thể, cần tập trung vào hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ, tổ chức thị trường giao dịch TPDN riêng lẻ giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại sở giao dịch chứng khoán, chuẩn hóa quy định về việc công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành. Đặc biệt, cần tiến tới xây dựng khung khổ pháp lý cho thị trường TPDN xanh, như quy định về các dự án sử dụng vốn trái phiếu xanh, giao dịch trái phiếu xanh…

Thứ hai, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát triển, đa dạng hóa hàng hóa TPDN phù hợp với nhu cầu huy động vốn. Thực hiện ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra công chúng. Xây dựng quy định, quy chuẩn về trái phiếu xanh và các sản phẩm TPDN dự án hợp tác công - tư.

Thứ ba, khuyến khích thành lập, thu hút các tổ chức tư vấn, xếp hạng tín nhiệm, định giá tham gia thị trường để nâng cao chất lượng TPDN được phát hành, giúp nhà đầu tư có thêm thông tin về rủi ro, định giá hợp lý khi mua bán trái phiếu..

Thứ tư, đa dạng hóa các chủ thể tham gia trên thị trường trái phiếu, ưu tiên các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, định chế tài chính trung gian, gồm cả các quỹ hưu trí, bảo hiểm xã hội, các công ty bảo hiểm có sở hữu của Nhà nước.

 

Tín dụng bất động sản tăng gần 15%, NHNN lý giải nguyên nhân doanh nghiệp khó tiếp cận vốn

 

Trong báo cáo gửi Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước thừa nhận thực tế nhiều doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng vẫn cón nhiều khó khăn, mặc dù được hưởng các chính sách hỗ trợ của ngân hàng.

tin-dung-bat-dong-san-tai-ngan-hang-tang-gan-15-phan-tram-1664772225.jpg

Nguyên nhân dẫn tới tình trạng doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay, theo Ngân hàng Nhà nước có một số lý do.

Một là, doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 kéo dài khiến kết quả kinh doanh sụt giảm, số lượng doanh nghiệp bị dừng hoạt động lớn, tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu cho hệ thống.

Hai là, phương án kinh doanh mới để khôi phục sản xuất - kinh doanh phụ thuộc nhiều yếu tố của thị trường, chính sách phát triển thị trường của các ngành, nhưng chưa bền vững.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, khó khăn về tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng càng khó khăn hơn do các nguyên nhân nội tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa (tài sản đảm bảo có giá trị thấp, tính minh bạch của hoạt động kinh doanh hạn chế, trình độ quản lý kém,…); các cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn thông qua bảo lãnh của Quỹ Bảo lãnh tín dụng, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian qua chưa đạt được như kỳ vọng.

Ngân hàng Nhà nước khẳng định, thời gian qua đã điều hành các giải pháp tín dụng phù hợp, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất-kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng.

Bên cạnh các giải pháp điều hành tín dụng, để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của người dân, doanh nghiệp, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động triển khai nhiều giải pháp.

Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước thường xuyên chỉ đạo tổ chức tín dụng mở rộng, đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức; Tiếp tục triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; Phát triển mạng lưới tổ chức tín dụng, các công ty tài chính, tổ chức tài chính vi mô phủ khắp các vùng miền nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng của người dân...

Với hệ thống các chỉ đạo và giải pháp đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 7/9/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 11,48 triệu tỷ đồng, tăng 9,93% so với cuối năm 2021 và tăng 16,76% so với cùng kỳ năm 2021 do cầu tín dụng tăng ngay từ đầu năm, phù hợp với diễn biến tích cực hơn của nền kinh tế.

Trong đó, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, phù hợp với đóng góp và tăng trưởng của các ngành kinh tế trong GDP; Tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên tăng trưởng tốt, cao hơn cùng kỳ năm trước, một số lĩnh vực có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung; Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ.

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 7/2022, tín dụng ngành nông, lâm, thủy sản tăng 7,31% so với cuối năm 2021; tín dụng công nghiệp và xây dựng tăng 7,42%; ngành thương mại, dịch vụ tăng 10,73%.

Cùng thời điểm, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 14,69% so với cuối năm 2021, chiếm 20,81% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống.

Trong đó, tín dụng với bất động sản kinh doanh tăng 6,6%; bất động sản mục đích tự sử dụng tăng 19,03%. Đáng lưu ý, tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán giảm 28,71%, chiếm 0,35%. Tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống (tín dụng tiêu dùng) tăng 14,99%, chiếm 20,9%.

Theo Ngân hàng Nhà nước, hiện điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng đang chịu nhiều áp lực

Lạm phát có xu hướng tăng, lạm phát so với cùng kỳ tại thời điểm cuối năm 2022 dự kiến vượt 4% gây thách thức đối với nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ngay từ đầu năm 2023.

Việc điều hành giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn do: Lạm phát trong và ngoài nước có xu hướng tăng; các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục đẩy nhanh tiến trình thu hẹp nới lỏng chính sách tiền tệ, điều chỉnh tăng lãi suất nhanh và mạnh; cầu tín dụng gia tăng; tỷ giá chịu nhiều sức ép; IMF khuyến nghị việc triển khai hỗ trợ phục hồi kinh tế thời gian tới của Việt Nam cần dựa chủ yếu vào chính sách tài khóa, trong khi chính sách tiền tệ cần thận trọng...

Áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi nhưng các nguồn vốn khác diễn biến không thuận lợi.

Cụ thể, thị trường vốn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán) đang tồn tại một số vấn đề và chưa phát triển tương xứng với vai trò cung cấp vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế; so với cùng kỳ năm 2021, đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và kiều hối có xu hướng giảm.

Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2020, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế (IMF, WB), tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam. ​

Trước các áp lực với chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới tiếp tục chủ đồng, linh hoạt, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thích ứng kịp thời với thị trường trong nước và ngoài nước.

Đồng thời, điều hành tín dụng an toàn, hiệu quả, phù hợp với diễn biến vĩ mô, tình hình lạm phát. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro...

 

Đang trình phương án tăng thêm vốn cho Big 4 ngân hàng

 

Ngân hàng Nhà nước cho biết đang phối hợp các bộ, ngành liên quan xem xét, trình cấp thẩm quyền phê duyệt phương án tăng vốn cho Agribank; đã đề nghị Bộ Tài chính có ý kiến về phương án tăng vốn của BIDV, VietinBank và Vietcombank.

Trong báo cáo vừa gửi tới Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước cho biết đang tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng.

Theo đó, nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng của hệ thống.

Cụ thể, đến cuối tháng 7/2022, vốn điều lệ của nhóm big 4 (Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV) đạt 180,3 nghìn tỷ đồng; tổng tài sản đạt 7.060,3 nghìn tỷ đồng; huy động vốn thị trường 1 đạt 5.618,2 nghìn tỷ đồng; dư nợ cho vay thị trường 1 đạt 5.151,4 nghìn tỷ đồng.

Các ngân hàng này cũng tích cực tham gia hỗ trợ, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém và dành nguồn lực để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng vay gặp khó khăn do dịch Covid-19.

Về tăng vốn điều lệ đối với nhóm big 4, Ngân hàng Nhà nước cho biết thời gian qua đã chỉ đạo các ngân hàng này triển khai các phương án bổ sung vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính.

Cụ thể, Agribank đã được Bộ Tài chính cấp bổ sung 3.500 tỷ đồng vốn điều lệ.

VietinBank đã chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ thêm 10.824 tỷ đồng sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án.

Vietcombank đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án đầu tư bổ sung vốn nhà nước thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức từ phần lợi nhuận còn lại năm 2019, tổng vốn điều lệ tăng thêm là 10.237 tỷ đồng.

BIDV đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án đầu tư bổ sung vốn nhà nước thông qua chi trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại giai đoạn 2018-2020, tổng số vốn điều lệ tăng thêm là 10.365 tỷ đồng.

Ngân hàng Nhà nước cho hay, hiện cơ quan này đang phối hợp các bộ, ngành liên quan xem xét, trình cấp thẩm quyền phê duyệt phương án tăng vốn điều lệ cho Agribank từ nguồn ngân sách nhà nước.

Đối với việc tăng vốn điều lệ của BIDV, Vietcombank, VietinBank, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản đề nghị Bộ Tài chính xem xét, có ý kiến về việc phân phối lợi nhuận năm 2021 để làm cơ sở trình cấp có thẩm quyền xem xét tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng này.

NHNN cho biết, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nhà nước tăng chậm hơn rất nhiều so với khối ngân hàng thương mại cổ phần, ảnh hưởng đến vai trò dẫn dắt thị trường, vai trò chủ lực, chủ đạo của toàn hệ thống.

Về nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, theo Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng nhóm này về cơ bản đều bám sát phương án được duyệt, tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động.

Đến cuối tháng 7/2022, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần đạt 416,9 nghìn tỷ đồng; tổng tài sản đạt 7.488,2 nghìn tỷ đồng; huy động vốn thị trường 1 đạt 5.513,4 nghìn tỷ đồng; dư nợ cho vay thị trường 1 đạt 4.686,6 nghìn tỷ đồng.

Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản chấp thuận tăng vốn điều lệ đối với 15 ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó, việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng (lợi nhuận để lại và các quỹ dự trữ).

Đối với các ngân hàng yếu kém, các ngân hàng mua bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước đã và đang chỉ đạo các ngân hàng này khẩn trương hoàn thiện phương án cơ cấu lại, đồng thời tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Về nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cho hay, thời gian qua đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh.

Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện các vấn đề, tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị cụ thể, có biện pháp xử lý phù hợp nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng.

NHNN cũng đã có văn bản chỉ đạo các tổ chức tín dụng, Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 trong thời gian kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết, khắc phục những khó khăn, vướng mắc theo yêu cầu tại Nghị quyết 63/2022/QH15 của Quốc hội.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, từ năm 2012 đến cuối tháng 7/2022, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 1.449,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu; riêng 7 tháng đầu năm 2022 xử lý được khoảng 88,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Trong đó, tổ chức tín dụng tự xử lý ở mức cao (chiếm 82,6% trong tổng nợ xấu được xử lý). Việc tự xử lý nợ xấu chủ yếu thực hiện thông qua hình thức sử dụng dự phòng rủi ro và khách hàng trả nợ. ​Riêng xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/7/2022, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 399,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng vẫn ở mức an toàn là 1,7%; tỷ lệ nợ xấu, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng là 5,41% (cuối năm 2021 là 6,3%).

Năm 2023, mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025. Trong đó, tập trung xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, giám sát và kiểm soát chặt chẽ việc phát sinh nợ xấu; tăng cường kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp... kịp thời phát hiện dấu hiệu rủi ro, vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời.

Đồng thời, thực hiện tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước theo đúng quy định tại Nghị quyết 43/2022/QH15.

 

Ngành ngân hàng “ngóng” sửa đổi Luật Giao dịch điện tử

 

Chuyển đổi số ngành ngân hàng đã đem lại “lợi ích kép” cho cả người dân và các ngân hàng thương mại, nhưng chưa thể thực hiện một cách toàn diện do vướng Luật Giao dịch điện tử.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho biết, hoạt động chuyển đổi số toàn ngành ngân hàng đang diễn ra rất mạnh mẽ. Tại Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Ngành ngân hàng tiên phong chuyển đổi số: Để toàn dân tham gia, toàn dân hưởng lợi" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức hôm 28/9, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng bày tỏ sự đồng tình với nhận định này.

“Phải nói rằng, trong quá trình chuyển đổi số, ngân hàng là ngành đầu tiên đi trước một bước và việc đi trước đó thể hiện rõ nét nhất”, ông Hùng nói.

Theo đánh giá của Bộ Thông tin và Truyền thông, NHNN xếp thứ nhất về chỉ số xếp hạng an toàn thông tin mạng, thứ hai về chỉ số thể chế số, thứ tư về chỉ số hoạt động chuyển đổi số.

NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số ngành ngân hàng do Thống đốc là Trưởng ban chỉ đạo; phê duyệt Kế hoạch Chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến 2030. Kế hoạch được xây dựng, tiếp cận theo hướng đặt người dân, khách hàng ở vị trí trung tâm, với mục tiêu đến năm 2025, 50% các nghiệp vụ ngân hàng được số hóa, 70% giao dịch khách hàng thực hiện trên kênh số...

Theo ông Hùng, các ngân hàng đã tập trung vốn, công nghệ, con người vào chuyển đổi số, tổ chức từ rất sớm và sẵn sàng bỏ ra nguồn lực rất mạnh chi cho chuyển đổi số. “Đại dịch ảnh hưởng rất lớn trên toàn cầu nhưng cũng là minh chứng rất lớn cho kết quả chuyển đổi số của ngành ngân hàng”, ông Hùng cho hay.

Ông Hùng dẫn chứng, trong thời kỳ giãn cách, người dân vẫn hoạt động bình thường, vẫn giao dịch thanh toán mua hàng hóa. Một số ngân hàng thực hiện chuyển đổi số từ sớm như VPBank, Techcombank, MB, HDBank… đã thu được kết quả tích cực, chỉ số CASA (tiền gửi không kỳ hạn) lên đến 40 - 50%, góp phần đưa lợi nhuận của ngân hàng lên rất lớn.

“Đây là tiền đề để các ngân hàng khác từng bước chuyển đổi số đồng bộ, toàn diện, đáp ứng nhu cầu của người dân”, ông Hùng nhận định.

Theo ông Lê Anh Dũng, Phó vụ trưởng phụ trách Vụ Thanh toán (NHNN), ngành ngân hàng bước đầu đã đầu tư 15.000 tỷ đồng cho hoạt động chuyển đổi số và đã thu được những thành quả rất tích cực. “Việt Nam là một trong những nước ứng dụng ngân hàng số hàng đầu khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 40% chỉ trong thời gian ngắn”, ông Dũng cho hay.

Mặc dù chuyển đổi số mang lại nhiều kết quả tích cực, song theo các chuyên gia, quá trình này cũng đang mang đến những khó khăn và thách thức cho các ngân hàng thương mại.

Từ góc nhìn của ngân hàng thương mại, ông Nguyễn Phúc Dương, Phó giám đốc Khối Công nghệ thông tin và Ngân hàng điện tử HDBank cho biết, ngoài yếu tố đầu tư công nghệ, yếu tố quan trọng hơn trong chuyển đổi số là con người và quy trình. Việc số hóa các quy trình, giảm thời gian thực hiện giao dịch có thể ảnh hưởng tới các hoạt động truyền thống. Vì vậy, phải thay đổi tư duy của các nhân sự để họ nhận thức được vấn đề và hỗ trợ thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn.

Một vấn đề khác cũng được các chuyên gia lưu ý là những rủi ro như gian lận, tấn công người dùng. “Chúng tôi xác định, các ngân hàng và NHNN phải an toàn trong dịch vụ. Bên cạnh đó, người dùng phải được cung cấp thông tin, kiến thức, được giáo dục kỹ năng an toàn tài chính để tận dụng tốt nhất các sản phẩm số của ngân hàng”, ông Lê Anh Dũng nói.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, trong chương trình chuyển đổi số giai đoạn hiện nay, ngành ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn về hành lang pháp lý. Luật Giao dịch điện tử có từ năm 2005, trong khi chuyển đổi số mạnh nhất là trong giai đoạn Covid-19, tức là các tổ chức tín dụng phải chuẩn bị trước đó vài năm. “Như vậy, ngân hàng phải đi trước một bước. Nhưng để các ngân hàng đi trước một bước, thì không phải các ngân hàng tự làm được trên cơ sở Luật Giao dịch điện tử”, ông Hùng cho hay.

Trước xu hướng chung của thế giới, NHNN đã chủ động tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Nhờ đó, trên 90% các dịch vụ thanh toán liên quan tiền gửi đều có thể triển khai chuyển đổi số.

Vấn đề còn vướng hiện nay là cho vay và các dịch vụ khác liên quan đến các bộ, ngành thì chưa thể triển khai. Theo ông Hùng, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không thể sửa đổi được, nếu Luật Giao dịch điện tử chưa được sửa đổi, bổ sung.

 

Lãi suất cho vay có tăng theo lãi suất huy động?

 

Chi phí đầu vào tăng theo xu hướng lãi suất huy động tăng sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh lãi suất điều hành, áp lực lên lãi suất cho vay vì vậy cũng ngày càng cao.

Hiện ở những kỳ hạn gửi tiết kiệm dưới 6 tháng, các ngân hàng tăng lãi suất lên mức trần 5%/năm, song sự khác biệt chủ yếu nằm từ 6 tháng trở lên. VPBank vừa tăng lãi suất tiết kiệm các kỳ hạn từ 0,5% đến 0,8%/năm. Đối với các kỳ hạn dưới 6 tháng, lãi suất dao động từ 4,5 - 4,8%/năm. Tuy nhiên, từ kỳ hạn 6 tháng trở lên, lãi suất tăng vọt lên 5,8 - 6,6%/năm, 12 tháng là 6,2 - 7%/năm và mức cao nhất 7,5%/năm ở kỳ hạn 36 tháng.

Trong khi đó, tại Ngân hàng Bản Việt, lãi suất kỳ hạn 6 tháng từ 6,8 - 7%/năm, 12 tháng từ 7 - 7,3%/năm, mức lãi suất cao nhất là 7,5%/năm kỳ hạn 24 tháng. SCB là ngân hàng có mặt bằng lãi suất huy động cao cũng đã tăng lãi suất kỳ hạn 6 tháng lên 6,85%/năm, 9 tháng 7%/năm, 12 tháng 7,3%/năm và mức cao nhất là 7,55%/năm ở kỳ hạn 24 tháng. OCB cạnh tranh khi tăng lên 6 - 7%/năm kỳ hạn 6 tháng, 12 tháng lên 6,7 - 7,3%/năm…

So với đầu năm 2022, lãi suất tiết kiệm đã tăng trên dưới 1%. Trong đó, với kỳ hạn dài ngày, các ngân hàng đang phải tăng mạnh lãi suất để tranh thủ huy động được tiền gửi dài ngày cơ cấu lại nguồn vốn, đáp ứng quy định của Thông tư 08/2020/TT-NHNN về việc giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn từ 37% hiện nay xuống còn 34% kể từ đầu tháng 10/2022.

Trong điều kiện chi phí đầu vào tăng, giới phân tích tài chính cho rằng, khó tránh được áp lực lên lãi suất đầu ra, dù có độ trễ. Theo lãnh đạo một ngân hàng, mặt bằng lãi suất huy động tăng dần từ đầu năm đến nay, đặc biệt khi room tín dụng của nhiều nhà băng đã cạn, nên việc tăng lãi vay là khó tránh.

Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, dù tăng lãi suất điều hành, nhưng NHNN sẽ vận động các tổ chức tín dụng cắt giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay và nghiên cứu giảm lãi suất ở một số lĩnh vực ưu tiên. NHNN không điều hành lãi vay, vì đây là thoả thuận giữa ngân hàng và người vay.

Trong bối cảnh các nhà băng khát tiền gửi, việc tăng lãi suất huy động kỳ vọng sẽ giúp giảm căng thẳng về thanh khoản. Song khi chi phí đầu vào tăng, lãi suất cho vay cũng biến động.

Hiện Việt Nam cần có một chính sách lãi suất phù hợp, có thể tăng nhưng ở mức vừa phải, gắn với việc điều hành tỷ giá hối đoái để đồng nội tệ không mất giá quá cao.

Yuanta Việt Nam cho rằng, biên lãi ròng (NIM) toàn ngành sẽ thu hẹp trong thời gian tới. Tuy nhiên, tác động sẽ không giống nhau cho từng ngân hàng. Các ngân hàng có dư nợ tín dụng/vốn huy động (LDR) thấp, hoặc các ngân hàng có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn thấp, sẽ ít chịu áp lực về NIM lớn hơn.

Trong khi đó, theo các chuyên gia VCBS, lãi suất tiếp tục tăng khiến dư địa điều hành mang tính chất định hướng giảm sức nặng, trong khi nguồn lực của NHNN còn hạn chế được xem là tín hiệu không tích cực. Cùng với đó, trên thị trường thế giới, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và nhiều ngân hàng trung ương tiếp tục quyết liệt tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát. Dự báo mặt bằng lãi suất huy động tăng 1,5-2%, lãi suất liên ngân hàng sẽ cao hơn đáng kể các năm trước và khó có khả năng thấp hơn ngưỡng 4%.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính, ngân hàng cho rằng, lạm phát Việt Nam đang gia tăng, NHNN yêu cầu các ngân hàng phấn đấu giảm lãi suất để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Nhưng nếu lạm phát tăng cao, thì mặt bằng lãi suất khó tiếp tục duy trì ở mức thấp như hiện nay, nhất là khi USD tăng áp lực lên tỷ giá. Cơ hội để giảm lãi suất huy động và cho vay đã qua, hiện Việt Nam cần có một chính sách lãi suất phù hợp, có thể tăng nhưng ở mức vừa phải, gắn với việc điều hành tỷ giá hối đoái để đồng nội tệ không mất giá quá cao.

Còn theo TS. Võ Trí Thành, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, thời gian qua, thị trường đã ghi nhận lãi suất huy động tăng trên thị trường 1, nhất là lãi suất kỳ dài hạn. Việc NHNN tăng lãi suất điều hành sẽ khiến lãi suất huy động tăng thêm, nhưng lãi suất cho vay có độ trễ và mức tăng sẽ thấp hơn nhiều.

Thực tế, kể từ đầu năm đến nay, bên cạnh xu hướng tăng lãi suất huy động, lãi suất cho vay cũng đã có dấu hiệu nhích tăng ở một số ngân hàng, đặc biệt đối với cho vay mua nhà. Nhưng theo ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN Chi nhánh TP.HCM, để giữ ổn định lãi suất cho vay trong bối cảnh lãi suất huy động tăng, giải pháp duy nhất và đòi hỏi trách nhiệm xã hội cao là các ngân hàng thương mại cần tiết giảm các loại chi phí, cấu phần tạo nên lãi suất cho vay.

 

Vốn đắt lên, ngân hàng dịch chuyển danh mục cho vay

 

Mở rộng cho vay bán lẻ, chuyển sang cho vay với kỳ hạn dài… là cách các ngân hàng bảo toàn biên lãi ròng (NIM) trong bối cảnh lãi suất huy động tăng như hiện nay.

Hàng loạt ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ như KienLongBank, Vietcapital Bank, BacABank, SCB… đã đồng loạt nâng lãi suất huy động có kỳ hạn dưới 6 tháng lên mức kịch trần (5%/năm) hoặc gần kịch trần, ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất điều hành. Mặt bằng vốn đầu vào tăng trong khi lãi suất đầu ra được Ngân hàng Nhà nước yêu cầu ổn định khiến biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng có nguy cơ sút giảm, ảnh hưởng đến kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Nửa đầu năm nay, nghịch lý là NIM nhiều ngân hàng có xu hướng tăng cao, thậm chí cao hơn cả trước thời điểm dịch Covid-19 diễn ra. Ví dụ, NIM của Techcombank năm 2019 chỉ khoảng 4,5%, thì 6 tháng đầu năm 2022 lên tới hơn 5,8%; NIM của MBB tăng từ mức gần 5% năm 2019 lên 5,42% 6 tháng đầu năm 2022; NIM của MSB từ mức dưới 3% năm 2019 lên mức 4,38% trong 6 tháng đầu năm nay…

Giá vốn rẻ kỷ lục trong 2 năm đại dịch trong khi lãi suất cho vay không giảm tương ứng khiến các ngân hàng hưởng lợi. Tỷ lệ chi phí huy động vốn (COF) của hàng loạt ngân hàng giảm đáng kể. Tuy vậy, thời kỳ tiền rẻ đã kết thúc khi lãi suất huy động và trần lãi suất bắt đầu tăng mạnh.

Để đối phó với nguy cơ sụt giảm biên lãi ròng, các ngân hàng đang dịch chuyển mạnh danh mục cho vay. Thực tế, xu hướng này bắt đầu diễn ra trong quý II/2022 khi các ngân hàng lường trước room tín dụng năm nay sẽ không được nới và chi phí vốn không còn rẻ.

TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho hay, do room tín dụng còn lại những tháng cuối năm rất ít ỏi, nhiều ngân hàng có xu hướng đẩy mạnh cho vay mua nhà với lãi suất cao, đặc biệt là cho vay với các dự án sân sau. Việc này vừa hỗ trợ các dự án bất động sản “sân sau”, vừa giúp ngân hàng duy trì được NIM lợi nhuận.

Thực tế, trong quý II/2022, một số ngân hàng có dư nợ trái phiếu doanh nghiệp và dư nợ cho vay bất động sản cao đã chứng kiến sự sụt giảm NIM do thị trường bất lợi, điển hình như Techcombank, Sacombank…

Bà Đỗ Hồng Vân, Trưởng nhóm Phân tích Khối dịch vụ Thông tin tài chính FiinGroup cho rằng, dù tín dụng nửa cuối năm không tăng đáng kể, song NIM các ngân hàng vẫn cải thiện chủ yếu nhờ dịch chuyển tín dụng sang kỳ hạn dài với mức lãi suất cao hơn. Tỷ lệ cho vay dài hạn của ngân hàng đã tăng 68% trong quý II/2022 so với quý I/2022, trong khi tỷ lệ cho vay ngắn hạn và trung hạn giảm lần lượt 36,3% và 31,8% so với quý trước.

Theo các chuyên gia phân tích VNDirect, để đối phó với áp lực gia tăng chi phí vốn đầu vào, nửa cuối năm nay, các ngân hàng đang đẩy mạnh hoạt động cho vay bán lẻ để tối ưu NIM. “Trước bối cảnh tín dụng hạn chế và NIM có khả năng bị thu hẹp khi chi phí vốn của các ngân hàng không còn duy trì ở mức thấp trong thời gian tới (do hệ quả của việc lãi suất tiền gửi tăng), chúng tôi tin rằng các ngân hàng sẽ tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực cho vay phù hợp để tối ưu lợi suất tài sản”, VNDirect nhận định.

Hiện các ngân hàng có tỷ lệ bán lẻ trên tổng dư nợ cao là VIB, ACB, Sacombank, VPBank, TPBank, HDBank, MBB, Vietcombank…

Nhìn vào các yếu tố sinh lời của hệ thống ngân hàng nửa đầu năm nay, có thể thấy, đóng góp chính của tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng đến từ 3 yếu tố: tín dụng phục hồi mạnh, chi phí vốn được kiểm soát và NIM tăng trưởng ổn định. Tuy vậy, những tháng cuối năm, room tín dụng còn lại rất ít, chi phí vốn chắc chắn sẽ tăng và NIM nhiều khả năng bị thu hẹp.

Hiện nay, nhiều ngân hàng đã cạn dư địa tăng trưởng tín dụng, không chỉ bởi room tín dụng hạn hẹp, mà còn do tỷ lệ cho vay/huy động đã chạm trần (LDR gần chạm 85%). TS. Nguyễn Hữu Huân (Trường đại học Kinh tế TP.HCM) cho hay, vừa qua, một số ngân hàng dù cạn room tín dụng nhưng vẫn phải tăng lãi suất huy động để thu hút vốn, do phải bù đắp thanh khoản (vì đã cho vay quá mức, vì LDR vượt trần hoặc tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn).

Do đó, theo các chuyên gia, dư địa tăng trưởng lợi nhuận nửa cuối năm sẽ thuộc về các ngân hàng có tỷ lệ LDR thấp, tỷ lệ cho vay ngắn hạn lớn, đồng nghĩa khả năng dịch chuyển sang cho vay dài hạn cao, có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) lớn…

Trong 6 tháng đầu năm nay, các ngân hàng có tỷ lệ LDR thấp là Viecombank, MBB, HDBank, VIB… Các ngân hàng có tỷ lệ cho vay ngắn hạn cao (đồng nghĩa có lợi thế chuyển đổi sang cho vay dài hạn để tận dụng lãi suất cho vay cao hơn) là BIDV, VPBank…

Xét về tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn, các ngân hàng có tỷ lệ CASA cao hiện nay là Techcombank, MBB, MSB, Vietcombank, ACB, Sacombank…, song nhiều ngân hàng cũng đang chứng kiến sự sụt giảm CASA nửa đầu năm nay, điển hình là Techcombank, MBB, VPBank, TPBank, VIB…

Với các nỗ lực dịch chuyển danh mục cho vay và đa dạng hóa doanh thu, nửa cuối năm nay, có thể một số ngân hàng vẫn duy trì được NIM. Tuy nhiên, nhiều khả năng, nhiều ngân hàng sẽ không đạt được mục tiêu tăng trưởng.

Theo thống kê của FiinGroup, năm 2022, có tới 26/27 ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận sau thuế trên 33%. Tuy vậy, khả năng nhiều ngân hàng sẽ khó đạt mục tiêu này. Thực tế, nửa đầu năm nay, dù tín dụng tăng trên 10%, nhưng tỷ lệ hoàn thành kế lợi nhuận cả năm của bình quân toàn ngành mới đạt 51,5%.

Với room tín dụng gần 4% còn lại nửa cuối năm, việc hoàn thành gần 49% kế hoạch lợi nhuận còn lại với nhiều ngân hàng là không dễ. Với các ngân hàng nhỏ, áp lực hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm lại càng khó khi không được Ngân hàng Nhà nước nới room đợt vừa qua, trong khi chi phí vốn ngày càng đắt đỏ.

 

Big 4 chính thức tham gia làn sóng tăng lãi suất huy động

 

Sáng 27/9, các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chính thức công bố biểu lãi suất huy động mới với mức tăng khoảng 1% so với trước khi điều chỉnh.

Cụ thể, tại Agribank, với kỳ hạn 1-2 tháng được Ngân hàng niêm yết mức 4,1%/năm; kỳ hạn 3-5 tháng là 4,4%/năm. Các mức lãi suất này vẫn thấp hơn trần quy đinh (5%/năm) song đã tăng khoảng 1%/năm so với trước đó. Tiền gửi không kỳ hạn cũng được nâng lên mức 0,3%/năm.

Tại kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, Agribank cũng nâng mạnh lãi suất lên mức 6,4%/năm, cùng tăng 0,8%/năm.

VietinBank cũng vừa cập nhật biểu lãi suất huy động. Theo đó, lãi suất kỳ hạn 1 tháng – dưới 3 tháng của nhà băng này đã tăng thêm 1% lên 4,1%/năm, lãi suất từ 3 tháng – dưới 6 tháng tăng lên 4,4%/năm. Với kỳ từ 12 tháng trở lên, ngân hàng này áp dụng mức lãi suất mới 6,4%/năm, cao hơn 0,8%/năm so với trước.

Tương tự, tại Vietcombank, kỳ hạn 1 – 2 tháng cũng ở mức 4,1%/năm; kỳ hạn 3 tháng là 4,4%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6,4%/năm. Đối với tiền gửi trực tuyến, Vietcombank thậm chí còn áp dụng mức lãi suất cao hơn với kỳ hạn 1 tháng ở mức 4,6%/năm; kỳ hạn 3 tháng áp sát mức trần cho phép là 4,9%/năm. Kỳ hạn 6 – 9 tháng lần lượt là 5,3 – 5,4%/năm. Tại kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, Ngân hàng áp dụng mức lãi suất lên tới 6,8%/năm. Như vậy, nếu khách hàng gửi tiền online tại Vietcombank, mức lãi suất nhận được sẽ cao hơn từ 1 – 1,3%/năm so với trước đó.

Do duy trì mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài, mức điều chỉnh lần này của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước cao hơn so với mức điều chỉnh gần đây của các ngân hàng TMCP tư nhân song lãi suất huy động các kỳ hạn vẫn thấp hơn khối ngân hàng TMCP tư nhân, vốn đã tăng lãi suất huy động nhiều đợt kể từ đầu năm tới nay.

Với thị phần huy động vốn chiếm tới 45% thị trường, động thái tăng mạnh lãi suất của nhóm Big4 dự kiến sẽ khiến mặt bằng lãi suất huy động toàn hệ thống tăng lên. Mặc dù vậy, mặt bằng lãi suất huy động hiện tại vẫn thấp hơn so với mức trước đại dịch (7%/năm).

Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất kỳ hạn qua đêm cũng vọt lên trên 5%/năm. Theo báo cáo thị trường tiền tệ mới đây, Bộ phận phân tích chứng khoán SSI (SSI Research) cho biết, trong tuần trước (19/09– 23/09/2022), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục sử dụng các công cụ hoạt động thị trường mở nhằm duy trì thanh khoản trên hệ thống ở mức vừa đủ và gián tiếp tác động lên mặt bằng lãi suất liên ngân hàng.

Cụ thể, NHNN đã phát hành 73,8 nghìn tỷ đồng tín phiếu với kỳ hạn 7 ngày, tăng 65,5% so với tuần trước. Lãi suất phát hành đạt 4,5% (tăng 50 điểm cơ bản so với tuần trước) trong 4 ngày đầu tuần và tăng lên 5,0% vào phiên giao dịch thứ 6. Nghiệp vụ mua kì hạn 7 ngày cũng được sử dụng đều đặn với khối lượng trung bình hàng ngày đạt 1 nghìn tỷ đồng và lãi suất cũng được điều chỉnh tăng dần và kết tuần đạt 5,5% (tăng 90 điểm cơ bản).

Kết tuần, NHNN đã hút ròng tổng cộng 34,6 nghìn tỷ đồng thông qua kênh hoạt động thị trường mở và khoảng hơn 23 nghìn tỷ đồng thông qua kênh bán ngoại tệ.

SSI cho rằng, NHNN sẽ duy trì thanh khoản trên hệ thống ngân hàng ở trạng thái không quá dồi dào trong giai đoạn còn lại của năm nhằm duy trì mặt bằng lãi suất liên ngân hàng VND ở vùng 5,0 – 5,5%, để tạo mức chênh lệch hợp lý với lãi suất USD, giảm thiểu áp lực lên tỷ giá.

Theo SSI, việc tăng lãi suất điều hành mới đây của Ngân hàng Nhà nước nghiêng nhiều về hướng duy trì môi trường ổn đỉnh tỷ giá, hơn là kiểm soát lạm phát khi chỉ số CPI vẫn ở trong tầm kiểm soát. Dư địa NHNN để tiếp tục tăng lãi suất điều hành là có khi lạm phát có thể sẽ cao hơn giai đoạn trước Covid trong khi đó mặt bằng lãi suất vẫn thấp hơn mức trước Covid.

Mặc dù lãi suất huy động tăng, song các chuyên gia của Maybank Investment Bank không cho rằng, việc tăng lãi suất sẽ tác động đáng kể đến phục hồi kinh tế do Thủ tướng yêu cầu các ngân hàng giữ ổn định lãi suất cho vay để hỗ trợ đà phục hồi.

Ngoài ra, giới hạn tăng trưởng tín dụng tổng hợp, là công cụ chính sách tiền tệ chính của NHNN để quản lý lạm phát và tăng trưởng, vẫn không thay đổi ở mức +14% trong năm. Chưa kể, đáp ứng một số yêu cầu về lãi suất của các ngân hàng thương mại là cơ sở dể NHNN cấp room tín dụng. Do đó, các ngân hàng không thể tùy tiện dâng lãi suất tăng cao.

Theo dự đoán của Maybank IBG, NHNN sẽ không điều chỉnh lãi suất trong thời gian còn lại của năm 2022 sau động thái tăng mạnh của tháng này. Maybank IBG nghĩ rằng các nhà điều hành có thể không muốn thắt chặt quá mức và cản trở việc phục hồi kinh tế. NHNN vẫn có đủ dự trữ để bảo vệ VND mà không phải tăng lãi suất thêm nữa.

Tuy nhiên, rủi ro đối với dự báo lãi suất của Maybank IBG đang có xu hướng tăng. Tại buổi làm việc với Thủ tướng, Thống đốc NHNN cho biết “NHNN sẽ theo dõi diễn biến thị trường để có những biện pháp điều hành phù hợp”. Maybank IBG cho rằng, điều này ngụ ý NHNN sẽ theo dõi chặt chẽ diễn biến của tỷ giá. Trong trường hợp áp lực bán ra đối với VND tiếp tục gia tăng bất chấp mức tăng 100 điểm cơ bản này, NHNN có thể lựa chọn tăng thêm.

Maybank IBG nâng dự báo tăng lãi suất lên +50 điểm cơ bản vào cuối năm 2023 (từ +25 điểm cơ bản trước đó). Điều này sẽ đưa tỷ lệ lãi suất thấp hơn -50 điểm cơ bản so với mức trước đại dịch. NHNN có thể vẫn giữ xu hướng tăng lãi suất trong năm tới để tránh bị tụt so với đường cong lãi suất cũng như so với các ngân hàng trung ương khác của khu vực trong bối cảnh FED tăng lãi suất. Nhưng NHNN có thể sẽ nhận thức được sự cần thiết phải duy trì một lập trường thích ứng, trước những rủi ro suy thoái toàn cầu đang gia tăng, đe dọa đà tăng trưởng.

Với quan điểm của Maybank IBG, việc tăng lãi suất sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến sự phục hồi, duy trì dự báo tăng trưởng GDP lần lượt là +8% cho năm 2022 và +6% cho năm 2023.