Xây dựng tiêu chí bảo tồn đa dạng sinh học trong Quy hoạch bảo vệ môi trường

Dự thảo Báo cáo Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra các chỉ tiêu quy hoạch đối với phân vùng môi trường; các khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung; thiết lập khu vực bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Xây dựng tiêu chí bảo tồn đa dạng sinh học trong Quy hoạch bảo vệ môi trường

Dự thảo Báo cáo Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra các chỉ tiêu quy hoạch đối với phân vùng môi trường; các khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung; thiết lập khu vực bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Bộ TN&MT vừa hoàn thành Dự thảo Báo cáo Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 để trình Chính phủ phê duyệt.

Nhận định về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh, Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. Đây là quy hoạch môi trường mang tính tổng thể đầu tiên, được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý và xuất phát từ thực tiễn, thống nhất với các quy hoạch khác và định hướng phát triển của địa phương.

Theo đó, Dự thảo Báo cáo đưa ra các chỉ tiêu quy hoạch đối với phân vùng môi trường; các khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung; thiết lập khu vực bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; thiết lập mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường quốc gia, liên tỉnh và tỉnh.

Cụ thể, phân các vùng có yếu tố nhạy cảm về môi trường dễ bị tổn thương trước tác động của ô nhiễm môi trường trên phạm vi cả nước thành vùng bảo vệ nghiêm ngặt, vùng hạn chế phát thải và vùng khác.

Xây dựng tiêu chí bảo tồn đa dạng sinh học trong Quy hoạch bảo vệ môi trường - Ảnh 1  Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. 

Về tiêu chí phân vùng môi trường thống nhất trên phạm vi cả nước, căn cứ theo tiêu chí xác định nhạy cảm môi trường đối với các đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 22 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật bảo vệ môi trường.

Đối với việc thiết lập khu vực bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, sẽ chuyển tiếp 178 khu bảo tồn, chuyển hạng 01 khu bảo tồn và thành lập mới 104 khu bảo tồn với diện tích khoảng 3.945.585,4 ha (trên đất liền: 3.468.071,6 ha; vùng biển: 477.513,9 ha); chuyển tiếp 07 cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học; xác nhận và thành lập mới 40 cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học; chuyển tiếp 03 hành lang đa dạng sinh học và thành lập mới 9 hành lang đa dạng sinh học, với diện tích khoảng 605.307 ha; thành lập 32 khu vực đa dạng sinh học cao với diện tích khoảng 6.731.747,9 ha; thành lập 28 cảnh quan sinh thái quan trọng với diện tích khoảng 5.535.645,6 ha; đưa vào danh mục 28 vùng đất ngập nước quan trọng để quản lý với tổng diện tích khoảng 339.027 ha.

Đối với xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung, ở cấp quốc gia sẽ hình thành 03 khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung liên vùng ở 03 miền (miền Bắc, miền Trung, miền Nam). Đối với cấp vùng, hình thành 08 khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung cấp vùng tại 6 vùng kinh tế - xã hội. Đối với cấp liên tỉnh; khuyến khích hình thành các khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt tập trung cấp liên tỉnh khi khoảng cách vận chuyển chất thải từ khu vực thu gom tới các khu xử lý vượt quá 60 km nhằm giảm thời gian vận chuyển, giảm ô nhiễm môi trường, giảm chi phí vận chuyển, giảm chi phí xử lý trên cơ sở thỏa thuận giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

Với thiết lập mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường quốc gia, liên tỉnh và tỉnh, sẽ tiếp tục quản lý và triển khai thống nhất, đồng bộ hệ thống quan trắc môi trường đất tác động tại các trạm thuộc mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia do Bộ NN&PTNT thực hiện. 100% hệ thống sông lớn xuyên quốc gia, liên vùng và liên tỉnh (13 hệ thống sông lớn: Kỳ Cùng - Bằng Giang, Cầu, Hồng - Thái Bình, Mã, Cả, Ba, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Sê San, Srêpốk, Đồng Nai, Mekong) có hệ thống quan trắc môi trường nước mặt tự động, liên tục và định kỳ; Xây dựng và vận hành trạm quan trắc tự động, liên tục tại 09 hồ chứa và các điểm quan trắc định kỳ tại 33 hồ chứa lớn quan trọng trên cả nước. Đồng thời, xây dựng và vận hành 08 trạm quan trắc môi trường không khí nền định kỳ tại 6 vùng kinh tế - xã hội; Xây dựng hoàn thiện và vận hành hiệu quả mạng lưới trạm quan trắc môi trường không khí tác động, liên tục ở 02 đô thị đặc biệt và các đô thị loại I…

Để đạt được các mục tiêu trên, Dự thảo Quy hoạch cũng đặt ra các giải pháp đổi mới tư duy của các cấp, các ngành; nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, cộng đồng và người dân; Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường phù hợp với thể chế kinh tế thị trường; Hoàn thiện tổ chức bộ máy, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong bảo vệ môi trường; Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; Huy động đầu tư từ xã hội, tăng dần chi ngân sách, nâng cao tính hiệu quả trong sử dụng nguồn lực về bảo vệ môi trường; Ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; xây dựng hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới quan trắc và cơ sở dữ liệu về môi trường; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế.

Góp ý trong việc xây dựng Dự thảo, nhiều ý kiến cũng cho rằng, Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia phụ thuộc nhiều vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch cần có sự đồng bộ, thống nhất với quy hoạch của các ngành khác. Về nội dung quy hoạch, cần làm rõ đối tượng quy hoạch; trong đó, đặc biệt lưu ý đến tính logic, sự liên kết giữa các thành phần, theo đó cần quy định rõ các tiêu chí kỹ thuật, định mức để thực hiện, đặc biệt là nội dung phân vùng quản lý chất lượng môi trường; quy hoạch quản lý chất thải rắn nên tập trung làm ở cấp quốc gia, cấp vùng; quy hoạch ở cấp tỉnh, nên giao lại cho địa phương. Đối với nội dung quy hoạch khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung, các đại biểu đề nghị nên có hướng dẫn cụ thể về lựa chọn công nghệ xử lý chất thải. Ngoài ra, khi đánh giá hiện trạng để lập quy hoạch, cũng nên nghiên cứu các điểm ô nhiễm liên vùng, ô nhiễm môi trường nổi cộm ở địa phương…

Trước đó, báo cáo của Tổng cục Môi trường cho biết, Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm bảo đảm phân bố không gian phân vùng quản lý chất lượng môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, quản lý chất thải, quan trắc và cảnh báo môi trường thống nhất trên phạm vi toàn quốc để bảo vệ, bảo tồn, phát triển hài hòa với môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh mới.

Tầm nhìn đến năm 2050, môi trường trên phạm vi cả nước có chất lượng tốt, trong lành và an toàn, các tác động xấu gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, các sự cố môi trường được chủ động phòng ngừa và kiểm soát hiệu quả; các di sản thiên nhiên và cảnh quan thiên nhiên quan trọng, đa dạng sinh học được gìn giữ và bảo tồn, bảo đảm cân bằng sinh thái và duy trì các dịch vụ hệ sinh thái; xã hội hài hoà với thiên nhiên, phát triển hiệu quả theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp.