Biến chủng Omicron ảnh hưởng thế nào tới chính sách tiền tệ toàn cầu?

Biến chủng Omicron của Covid-19 giáng một đòn mạnh vào những tia hy vọng gần đây rằng nền kinh tế thế giới sẽ bước sang năm 2022 trong một tư thế vững chắc hơn, đặt ra thách thức đối với các ngân hàng trung ương trong việc điều chỉnh chính sách để chống lại sự leo thang của lạm phát...

Chủ tịch Fed Jerome Powell - Ảnh: Bloomberg.

Các chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Goldman Sachs đã đặt ra bốn khả năng. Kịch bản xấu nhất trong số này là một làn sóng lây nhiễm mới xảy ra trong quý 1/2022, khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm còn 2% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn 2,5 điểm phần trăm so với dự báo hiện tại. Mức tăng trưởng của cả năm 2022 sẽ đạt khoảng 4,2%, thấp hơn 0,4 điểm phần trăm so với mức dự báo hiện tại. Một kịch bản nhẹ nhàng hơn là biến chủng mới không đặt ra mối nguy lớn như lo ngại lúc đầu.

Ngay sau khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vào hôm 25/11 cho biết một biến chủng mới của Covid-19 đã được phát hiện ở miền Nam châu Phi, hàng loạt quốc gia đã áp các biện pháp hạn chế đi lại, vào thời điểm bước vào mùa nghỉ lễ cuối năm tại nhiều nền kinh tế hàng đầu. Hàng năm, đây là khoảng thời gian người tiêu dùng mạnh tay mua sắm, tạo động lực mạnh cho tăng trưởng kinh tế quý 4.

Thị trường tài chính phản ứng với tin xấu bằng những phiên giao dịch “đỏ lửa”. Ba phiên bán tháo ngày 26/11, 30/11 và 1/12 đã khiến chỉ số Dow Jones của chứng khoán Mỹ mất tổng cộng khoảng 2.000 điểm.

CÁC NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG “TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN”

Biến chủng mới xuất hiện đúng lúc các ngân hàng trung ương đang dịch chuyển sang lập trường cứng rắn, chuẩn bị rút lại các chính sách tiền tệ siêu lỏng lẻo thời đại dịch Covid-19. Sự dịch chuyển này diễn ra không phải vì phục hồi kinh tế đã diễn ra vững chắc, mà bởi giá cả trên toàn cầu liên tục leo thang, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải tính đến thắt chặt sớm hơn dự kiến để chống lại sức ép lạm phát.

Biến chủng Omicron đang đặt các ngân hàng trung ương vào thế “tiến, lui đều khó”.

Việc Omicron bất ngờ xuất hiện khiến nhà đầu tư ở nhiều thị trường cho rằng các ngân hàng trung ương sẽ “chùn tay”, vì nếu biến chủng mới khiến đà phục hồi bị đảo lộn, thì việc thắt chặt vào lúc này không khác gì “bồi” thêm một đòn nữa vào nền kinh tế. Nhưng sức ép lạm phát sẽ càng lớn hơn nếu Omicron dẫn tới một đợt hạn chế mới ở các trung tâm sản xuất của thế giới như Trung Quốc, làm nghiêm trọng thêm những gián đoạn trong chuỗi cung ứng và gia tăng tình trạng thiếu lao động.

Các chỉ số gần đây đều cho thấy độ nóng ngày càng tăng của lạm phát tại các nền kinh tế lớn, trong khi tăng trưởng yếu đi.

Tại Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số chi tiêu cá nhân (PCE) – hai thước đo lạm phát hàng đầu – đều đạt mức cao nhất hơn 3 thập kỷ trong tháng 10. Tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 3 của Mỹ chỉ đạt 2%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 2,7-2,8% mà giới phân tích đưa ra trước đó.

Số liệu từ châu Âu ngày 30/11 cũng cho thấy lạm phát ở khu vực Eurozone trong tháng 11 cao nhất 24 năm. Trong quý 3, GDP của Eurozone tăng 2,2% so với quý 2, một mức tăng mạnh và cho thấy đà phục hồi mạnh sau khi nền kinh tế khu vực sụt giảm 6,3% trong năm ngoái. Tuy nhiên, từ trước khi biến chủng Omicron được phát hiện, kinh tế châu Âu đã đối mặt nguy cơ suy giảm tăng trưởng do làn sóng lây nhiễm Covid-19 dâng cao, lập kỷ lục ở một số nước như Đức.

Tại Trung Quốc, chỉ số giá nhà sản xuất (PPI) tháng 10 tăng 13,5% so với cùng kỳ năm ngoái, mức tăng mạnh nhất kể từ giữa thập niên 1990. Trong khi đó, việc theo đuổi chiến lược "Zero Covid" đang đặt ra nguy cơ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc giảm sâu. Quý 3 vừa qua, kinh tế Trung Quốc chỉ tăng trưởng 4,9%, không đạt dự báo tăng 5,2% mà giới phân tích đưa ra trước đó và giảm mạnh từ con số tăng 7,9% đạt được trong quý 2. Sự xuất hiện của biến chủng Omicron sẽ chỉ khiến Trung Quốc càng kiên định với cách chống dịch nghiêm ngặt hiện nay. Chuyên gia kinh tế trưởng về Trung Quốc của UBS Group, bà Wang Tao, cho rằng các biện pháp chống dịch như vậy có thể cản trở tiêu dùng và khiến kinh tế Trung Quốc giảm tốc sâu hơn, trong bối cảnh nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới vốn dĩ đã giảm tốc vì thiếu điện và chiến dịch kiểm soát nợ trong ngành bất động sản. Theo bà Wang, tăng trưởng GDP của Trung Quốc có thể giảm còn 4% trong năm tới, từ mức dự báo hiện tại là tăng 5,4%, nếu các hạn chế chống Covid như hiện nay tiếp tục kéo dài sau Thế vận hội mùa đông ở Bắc Kinh vào tháng 2.

Trong bối cảnh như vậy, các ngân hàng trung ương lớn đứng trước lựa chọn khó khăn: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) phải quyết định có nên đẩy nhanh việc cắt giảm chương trình mua tài sản; Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) cân nhắc việc nâng lãi suất; và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) có thể phải bắt đầu cắt giảm chương trình mua tài sản.

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell dường như đã đưa ra lựa chọn của mình trong hai buổi điều trần mới đây trước Ủy ban Ngân hàng thuộc Thượng viện. Ông phát tín hiệu sẽ tập trung nỗ lực vào việc kiểm soát lạm phát thay vì lo lắng về ảnh hưởng của biến chủng mới với tăng trưởng.

Ngày 1/12, ông Powell nói Fed cần chuẩn bị sẵn sàng để phản ứng với khả năng lạm phát có thể không giảm trong nửa sau của năm 2022 như các dự báo hiện nay nhận định. Trong buổi điều trần ngày 30/11, ông nói Fed sẽ bàn về đẩy nhanh tiến độ cắt giảm chương trình mua tài sản trong cuộc họp tháng 12 và ông đã ngừng sử dụng từ “tạm thời” để nói về lạm phát ở Mỹ.

NGUY CƠ “STAGFLATION” CỦA KINH TẾ TOÀN CẦU

Điều gì xảy ra tiếp theo sẽ tùy thuộc vào việc các nhà khoa học sẽ phát hiện được điều gì về biến chủng mới của Covid-19, bao gồm việc biến chủng này có dễ lây không và có khả năng kháng vaccine hay không.

Điều tệ nhất là Omicron buộc các quốc gia tái áp phong tỏa - cách chống dịch có thể gây ra những đứt gãy nghiêm trọng hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu và phá hỏng sự phục hồi kinh tế còn mong manh. Trong trường hợp đó, thế giới có thể rơi vào “stagflation” – tình trạng kết hợp giữa lạm phát tăng mạnh và tăng trưởng giảm tốc.

“Thế giới hiện chưa rơi vào cảnh stagflation”, chuyên gia kinh tế trưởng khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Natitxis SA, bà Alicia Garcia Herrero, nhận định trên Bloomberg. “Nhưng nếu thêm một năm đóng cửa biên giới và gián đoạn chuỗi cung ứng, chúng ta có thể bị đẩy vào tình trạng đó”.

Trong khi đó, sau một năm ứng phó với đại dịch, các lựa chọn chính sách còn lại của các ngân hàng trung ương là không nhiều. Đến nay mới chỉ có một vài ngân hàng trung ương đã thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ và lãi suất cơ bản tại các nền kinh tế phát triển vẫn ở ngưỡng gần 0, đồng nghĩa với dư địa hạn hẹp để giải cứu nền kinh tế thêm một lần nữa. Chưa kể, các chính phủ đang gánh một lượng nợ lớn, dẫn tới dư địa hành động bằng chính sách tài khóa cũng không có gì rộng rãi.

Một số chuyên gia với cái nhìn lạc quan cho rằng ảnh hưởng của biến chủng Omicron đối với kinh tế toàn cầu ngay cả trong trường hợp xấu nhất cũng sẽ không nghiêm trọng như suy thoái 2020. Cơ sở của nhận định này là chính phủ nhiều quốc gia, ngoại trừ Trung Quốc, hiện đều cho thấy không muốn phong tỏa trở lại. Tỷ lệ tiêm chủng tiếp tục tăng lên của thế giới giúp các quốc gia có thể linh hoạt hơn trong công tác chống dịch, từ đó gây thiệt hại ít hơn đến tăng trưởng.

“Các doanh nghiệp và hộ gia đình đã thích nghi được với hạn chế và phong tỏa, nên tác động sẽ không nghiêm trọng như trước đây”, ông Rob Subbaraman, Trưởng bộ phận nghiên cứu thị trường toàn cầu của Nomura Holdings Inc. nhận xét.