Nguyên nhân ngày càng nhiều người Việt mắc ung thư

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến số ca mắc ung thư ở Việt Nam tăng trong đó có sự gia tăng về dân số, sự phát triển về kỹ thuật trong chẩn đoán, người dân ý thức hơn trong việc tầm soát bệnh…

Thông tin trên được GS.TS Mai Trọng Khoa, Nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, Phó Chủ tịch Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam cho biết bên lề Hội nghị Khoa học thường niên lần 23 và Lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam.

Số ca mắc ung thư ở Việt Nam mỗi năm có xu hướng tăng lên về số lượng và về loại ung thư. Ung thư gan là ung thư đứng đầu ở cả 2 giới nam và nữ, xét theo giới thì ung thư phổi đứng đầu ở nam giới.

GS.TS Khoa thông tin, ở một số nước trên thế giới, tỷ lệ mắc ung thư tăng tuy nhiên ở một số loại ung thư, tỷ lệ tử vong hằng năm giảm. Trong khi đó, số mắc và số ca tử vong do ung thư tại Việt Nam đều tăng. 

“Việt Nam đang ở ngưỡng báo động ở tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư. Đây là gánh nặng, thách thức cho nước ta trong công tác phòng chống ung thư”, GS.TS Khoa chia sẻ.

bs-1660924796.png Một ca phẫu thuật bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội)

Một vấn đề được GS.TS Khoa thông tin nữa là tỷ lệ trẻ hóa ung thư. “Về nguyên tắc, tuổi càng cao tỷ lệ mắc ung thư càng lớn. Nhưng có những loại ung thư, thập kỷ trước, thường chỉ xuất hiện ở người lớn tuổi, trung niên nhưng nay lại xuất hiện ở người trẻ. Ví dụ ung thư dạ dày có thể gặp ở người trẻ, thậm chí là học sinh phổ thông”, nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai cho biết.

PGS.TS Khoa cũng lý giải nguyên nhân thời gian qua mặc dù chúng ta nỗ lực và có nhiều chương trình phòng chống ung thư nhưng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong hằng năm vẫn tăng cao. 

“Tình trạng này do nhiều nguyên nhân tổ hợp lại”, PGS.TS Khoa nói. Nguyên nhân thứ nhất, dân số tăng kéo theo các bệnh chung cũng sẽ tăng, trong đó có ung thư. Nguyên nhân thứ hai, tuổi thọ tăng lên (già hóa dân số) số mắc ung thư càng cao. 

Nguyên nhân thứ 3, theo PGS.TS Khoa, cùng với sự phát triển của truyền thông, kiến thức của người dân về bệnh này tăng lên. Chất lượng cuộc sống được cải thiện, người dân quan tâm sức khỏe nhiều hơn. Họ chủ động thăm khám hoặc tham gia các chương trình thăm khám, tầm soát ung thư của xã hội, cộng đồng. Do đó, nhiều người phát hiện sớm ung thư. 

Thứ 4 là do khoa học công nghệ phát triển. Nếu như trước đây, chúng ta không có máy móc, xét nghiệm để phát hiện ung thư, hiện nay máy móc, thiết bị nhiều và kỹ thuật công nghệ cao giúp phát hiện khối u rất nhỏ ở giai đoạn rất sớm. Điều này dẫn đến số ca ung thư tăng.

“Bên cạnh đó, nguyên nhân số ca mắc ung thư tăng còn do môi trường sống - đây chỉ là một yếu tố trong rất nhiều nguyên nhân bởi có những quốc gia tiên tiến, môi trường được đảm bảo tỷ lệ ung thư vẫn tăng. Nhưng môi trường (nước, không khí…) ô nhiễm, kém chất lượng chắc chắn là một trong những yếu tố quan trọng gây nên ung thư”, PGS.TS Khoa nói.

Bên cạnh đó còn nguyên nhân đến từ thói quen ăn uống. Như vậy, theo chuyên gia này, có rất nhiều yếu tố dẫn đến ung thư tăng trong đó tỷ trọng các yếu tố thay đổi theo từng quốc gia. Ví dụ tại Việt Nam ung thư gan có tỷ lệ mắc hàng đầu nhưng ở nước khác lại là loại ung thư khác.

Về thành tựu của y học hiện nay trong chẩn đoán, điều trị ung thư, PGS.TS Khoa khẳng định, với ung thư quan trọng nhất là chẩn đoán. Hiện nay, điện quang và y học hạt nhân đã đóng vai trò chủ đạo, giúp ích rất lớn trong chẩn đoán ung thư và nhiều căn bệnh khác.

“Việt Nam có hầu hết tất cả thiết bị về điện quang và y học hạt nhân hàng đầu trên thế giới. Kỹ thuật PET/CT ra đời giúp phát hiện ung thư sớm. Về y học hạt nhân, chúng ta còn sử dụng phóng xạ điều trị ung thư rất hiệu quả. Chúng ta có hầu hết các kỹ thuật hiện đại như phẫu thuật nội soi, phẫu thuật robot…”, PGS.TS Khoa nói.

“Chỉ có điều sự phân bố kỹ thuật công nghệ hiện đại không đồng đều giữa các vùng miền, các bệnh viện”, PGS.TS Khoa nêu vấn đề. 

bs-2-1660924896.png GS.TS Phạm Minh Thông - Chủ tịch Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam

GS.TS Phạm Minh Thông - Chủ tịch Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam, thông tin thêm hiện nay với các thiết bị hiện đại, chúng ta có thể chẩn đoán sớm và sâu nhiều bệnh. Ví dụ như ung thư gan, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư vú - khi lâm sàng chưa phát hiện ra bệnh nhưng chẩn đoán hình ảnh đã có thể thấy. Việc chẩn đoán sớm sẽ giúp việc điều trị sớm và hiệu quả hơn. 

GS.TS Thông cũng nêu các tiến bộ trong chẩn đoán, điều trị ung thư gan tại Việt Nam. Cụ thể, sau khi được chẩn đoán sớm, chúng ta dùng các kỹ thuật can thiệp điện quang như đốt, nút mạch, mô cắt… Từ đó có những người bệnh sau khi sử dụng kỹ thuật nút mạch điều trị ung thư gan có thể sống 10-20 năm… “Chúng tôi có bệnh nhân cách đây 20 năm phát hiện, điều trị ung thư gan bằng nút mạch hiện vẫn sống khỏe mạnh. Đó là nhờ các tiến bộ về kỹ thuật”.

Ngoài ra, sự phát triển của điện quang và y học hạt nhân còn giúp chẩn đoán sớm, can thiệp ngay các trường hợp chảy máu não, đột quỵ bằng CT cộng hưởng từ...

“Nhiều bệnh nhân trước kia tàn phế, tử vong do khoa học kỹ thuật chưa phát triển. Đến nay hàng nghìn bệnh nhân đã được cứu sống nhờ kỹ thuật điện quang trong chẩn đoán, đặc biệt là can thiệp điều trị”, GS.TS Thông cho biết.

Bên cạnh đó, trình độ bác sĩ cũng được nâng cao do đào tạo, chuyển giao kỹ thuật… tiệm cận, đuổi kịp các nước trong khu vực, nhiều kỹ thuật ngang bằng các nước trên thế giới.

Năm 2020, Việt Nam ghi nhận 182.563 ca mắc mới ung thư. Trong đó 5 loại ung thư phổ biến nhất hiện nay gồm ung thư gan (14,5%), phổi (14,4%), ung thư vú ở nữ (11,8 %), dạ dày (9,8%), đại trực tràng (9%). Năm 2018, Việt Nam ở vị trí 99 toàn cầu, tỷ lệ mắc ung thư 151,4 trên 100.000 dân. Sau hai năm, Việt Nam tăng 7 bậc trên xếp hạng ung thư thế giới.