Doanh thu hợp nhất VPBank đạt 28.300 tỷ đồng, tăng 7,6%

Tổng doanh thu hợp nhất sau 9 tháng của VPBank đạt 28.300 tỷ, tăng 7,6% và được Moody’s đánh giá cao về tiềm lực vốn, khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động.

Kết quả khả quan của 9 tháng đầu năm là minh chứng cho chiến lược điều hành đúng đắn của ban lãnh đạo VPBank trong bối cảnh dịch bệnh hai lần bùng phát trong nước.

Kiểm soát tốt nợ xấu, tối ưu hóa bảng cân đối

Kết thúc quý III, mức tăng trưởng tín dụng hợp nhất tại VPBank đạt 16,50%, trong đó ngân hàng riêng lẻ đạt 19,34%, mức tốt so với trung bình ngành, tạo nền tảng cho cú bật tăng trưởng ở các phân khúc bán lẻ trong thời gian tới. Tỷ lệ nợ xấu hợp nhất được duy trì ở mức dưới 3%, trong đó tỷ lệ này tại ngân hàng riêng lẻ giảm còn 2,01%.

Song song với việc giảm dần tỷ lệ nợ xấu, ngân hàng cũng gia tăng chi phí dự phòng hợp nhất thêm 14,4% so với cùng kỳ (sau khi loại trừ chi phí dự phòng cho VAMC). Tỷ lệ này ở ngân hàng riêng lẻ đạt gần 30%, cho thấy ngân hàng sẵn sàng với “bộ đệm” dự phòng nợ xấu để ứng phó với tác động của dịch bệnh.

Tuân thủ theo chính sách điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đồng thời tận dụng lợi thế thanh khoản tốt trong quý III, VPBank chủ động cấu trúc bảng cân đối, giảm lãi suất huy động các kỳ hạn ở mức từ 1-2%, giúp cải thiện đang kể chi phí vốn (COF).

VPBank anh 1

Kết thúc quý III, mức tăng trưởng tín dụng hợp nhất tại VPBank đạt 16,50%.

Bên cạnh đó, VPBank tiếp tục hợp tác với IFC, gần đây là khoản vay 100 triệu USD với giá hợp lý, tối ưu chi phí vốn trung dài hạn.

Tiền gửi không kỳ hạn (CASA) cũng đạt mức 15,60%, tăng mạnh so với mức trung bình 12-13% hồi cuối năm 2019 và cuối quý II. Kết quả này phản ánh VPBank có những bước tiến đáng ghi nhận trong việc đa dạng hóa nguồn vốn huy động dài hạn với mức giá hợp lý, góp phần tối ưu hóa bảng cân đối.

Các tỷ lệ an toàn được duy trì ở mức tốt. Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng vốn huy động (LDR) đạt 67% (giới hạn của NHNN là 85%). Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn được kiểm soát tốt (27,8%), thấp hơn mức tối đa NHNN cho phép là 40%. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tại ngân hàng hợp nhất tiếp tục được duy trì ở mức hơn 11%, mức khá cao so với yêu cầu tối thiểu 8% theo Basel II, đảm bảo “mức đệm vốn” được duy trì đủ tốt cho cả trường hợp xấu nhất của dịch bệnh xảy ra.

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) lần lượt đạt mức 21,8% và 2,5%.

Kiểm soát hiệu quả chi phí vận hành

Tổng doanh thu (TOI) hợp nhất sau 9 tháng đạt 28.300 tỷ (tăng 7,6%), riêng ngân hàng mẹ tăng trưởng 18,7% so với cùng kỳ. Trong quý III, TOI của ngân hàng riêng lẻ đạt gần 5.000 tỷ đồng (tăng gần 8% so với quý II).

Thu nhập từ phí của ngân hàng mẹ (NFI) tăng trưởng gần 36%, đạt hơn 2.200 tỷ đồng, tỷ trọng NFI trên tổng thu nhập hoạt động tăng từ 13,2% lên 15,1% so với cùng kỳ, tiếp tục chỉ ra chỉ tiêu này là động lực tăng trưởng của VPBank.

Cùng góp phần vào tăng trưởng doanh thu là thu nhập từ nợ đã xử lý rủi ro với con số hợp nhất tuyệt đối sau 9 tháng đạt 1.500 tỷ đồng (tăng 24%), ghi nhận tăng trưởng đột phá tại FE Credit với mức tăng 30,3% so với cùng kỳ.

Không chỉ đẩy mạnh tăng trưởng doanh thu, VPBank còn nỗ lực kiểm soát chi phí hoạt động (OPEX), gồm số hóa tối đa các khâu vận hành, từ ứng dụng dữ liệu lớn (big data) trong phê duyệt tín dụng, đến đánh giá mức độ rủi ro và chăm sóc khách hàng trên đa kênh nền tảng số, hướng đến mục tiêu trở thành ngân hàng thân thiện nhất với người dùng thông qua công nghệ.

Tháng 7, VPBank trở thành ngân hàng đầu tiên tuân thủ mọi quy định về eKYC, cho phép khách hàng sở hữu tài khoản thanh toán và thực hiện ngay các giao dịch trong vài phút.

VPBank anh 2

VPBank hướng đến mục tiêu trở thành ngân hàng thân thiện nhất với người dùng thông qua công nghệ.

Số lượng khách hàng số (digital user) tại ngân hàng mẹ đạt gần 1,7 triệu vào cuối quý III, tăng 33% so với cuối 2019. OPEX ngân hàng hợp nhất, giảm 5,7%, trong 9 tháng đầu năm. Điều này thể hiện sự quyết tâm của ngân hàng trong việc quản lý sát sao chi phí hoạt động nhằm kiên trì thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững.

Tỷ lệ chi phí trên tổng thu nhập (CIR) ở ngân hàng hợp nhất giảm từ 34,7% xuống còn 30,4%. Mức 9 tháng tại ngân hàng mẹ được ghi nhận còn 32,3% và tại FE là 28,4%.

Với nhiều sản phẩm đa dạng hóa doanh thu được triển khai đồng bộ, kết hợp chính sách kiểm soát và tối ưu hóa chi phí hoạt động, lợi nhuận trước thuế thu được sau 9 tháng của VPBank đạt 92% kế hoạch đề ra, tương đương mức gần 9.400 tỷ đồng. Trong đó, lợi nhuận của ngân hàng mẹ đạt hơn 6.200 tỷ đồng, đóng góp 66% vào lợi nhuận hợp nhất.

Cuối tháng 7, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s đánh giá các chỉ số xếp hạng tín nhiệm của VPBank tiếp tục giữ nguyên ở triển vọng ổn định. Tổ chức này đánh giá cao tiềm lực vốn của VPBank, khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động cao hơn mức trung bình ngành ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Moody’s nhận định kết quả kinh doanh của VPBank thể hiện bảng cân đối được tối ưu hóa, đảm bảo các tỷ lệ an toàn và tài sản có thanh khoản tốt.

Kết quả kinh doanh khả quan đạt được sau 9 tháng hoạt động một lần nữa khẳng định VPBank là một trong những ngân hàng cổ phần dẫn đầu thị trường, cả về quy mô lẫn hiệu quả hoạt động. Với việc dịch Covid-19 tiếp tục được Chính phủ kiểm soát tốt như hiện nay và các dấu hiệu chuyển biến tích cực từ thị trường, ban lãnh đạo ngân hàng kỳ vọng hoạt động kinh doanh cả năm của VPBank đạt kết quả khả quan, nhiều mục tiêu chính sẽ vượt mức dự đoán.