Hàng loạt cổ phiếu ngân hàng giảm hơn nửa giá trị so với đầu năm

Do đà lao dốc của thị trường, thị giá nhiều cổ phiếu ngân hàng giảm trên 50% so với hồi đầu năm, và giá 3 cổ phiếu đã xuống dưới mức 10.000 đồng/cp.

Từ đầu năm đến nay, cổ phiếu ngân hàng liên tục giảm theo đà rơi của thị trường và tạo đáy vào tháng 6. Nhóm cổ phiếu ngân hàng bật tăng trở lại khoảng 15% trong 2 tháng sau đó và tiếp tục giảm từ đầu tháng 9 do biến động vĩ mô và áp lực gia tăng lãi suất. 

Mở cửa phiên đầu tháng 10, nhiều cổ phiếu ngân hàng tiếp tục nằm sàn khi VN-Index xuyên thủng ngưỡng hỗ trợ 1.100 điểm. Kết phiên ngày 5/10, thị trường đã trở lại sắc xanh, song thị giá của đa số cổ phiếu ngân hàng vẫn ở vùng thấp so với đầu năm.

Theo thống kê về biến động giá của 27 ngân hàng thương mại niêm yết, VBB của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank) là cổ phiếu giảm mạnh nhất 53% kể từ đầu năm, xuống còn hơn 9.300 đồng/cp. Cổ phiếu của Ngân hàng Bản Việt, BVB cũng giảm 52% xuống còn 11.500 đồng/cp.

ngan-hang-ban-viet-1665026447.jpg

Giá những cổ phiếu ngân hàng thuộc Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cũng giảm mạnh như SHB và OCB cùng giảm 48%, MSB giảm 45% xuống lần lượt 11.700 đồng/cp, 14.400 đồng/cp và 16.150 đồng/cp.

Nhiều cổ phiếu khác có thị giá giảm trên 40% như TPB và LPB (cùng giảm 42%), ABB và NAB (cùng giảm 41%), STB và PGB (giảm 40%). Các cổ phiếu vốn hoá lớn như TCB, CTG, VPB dao động từ 30-39%.

4 cổ phiếu giảm nhẹ nhất trong nhóm ngân hàng gồm EIB (giảm 2%), KLB (giảm 4%), VCB (giảm 10%) và BID (giảm 16%).

Báo cáo cập nhật mới đây của Chứng khoán Agribank chỉ ra rằng lũy kế từ mức đỉnh đầu năm (tháng 2/2022) cho tới nay, cổ phiếu ngành ngân hàng đã giảm trung bình khoảng 40%.

Bên cạnh đó, định giá nhóm ngân hàng theo P/B (1,4x) vẫn đang ở dưới mức trung bình 5 năm (2x) - vùng giá hấp dẫn để đầu tư.

Tuy nhiên, lợi nhuận ngành ngân hàng trong năm 2022 và 2023 sẽ khó duy trì tăng trưởng cao như giai đoạn 2020 – 2021. Động lực tăng trưởng của nhóm giảm khi dư địa tăng trưởng tín dụng không còn nhiều và NIM chịu áp lực do lãi suất đầu vào có xu hướng tăng trong khi lãi suất cho vay khó tăng theo tương ứng.