Nguồn tin PLO cho biết Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã mở phiên họp xem xét kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao về việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm (của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao) vụ tranh chấp ly hôn giữa bà Lê Hoàng Diệp Thảo và ông Đặng Lê Nguyên Vũ (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Trung Nguyên).
Theo đó, sau khi xem xét, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã không nhất trí với kiến nghị nói trên của Viện trưởng VKSND Tối cao.
Theo quy định của BLTTDS 2015, với việc Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao không nhất trí xem xét kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao, xem như vụ án ly hôn này tạm khép lại.
(Trường hợp Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao nhất trí với kiến nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao thì sau đó Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sẽ mở phiên họp để xem xét lại quyết định giám đốc thẩm trước đó của chính mình)
Trước đó, Viện trưởng VKSND Tối cao kiến nghị đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hủy quyết định giám đốc thẩm, hai bản án sơ, phúc thẩm trong vụ phân chia tài sản chung, giao TAND TP.HCM xử lại.
Ông Vũ và bà Thảo với vụ ly hôn ngàn tỉ kéo dài từ năm 2018 đến nay. Ảnh: PLO
Kiến nghị của VKS phân tích các bản án trên có nhiều sai sót. Cấp sơ thẩm dùng chứng thư và báo cáo định giá tài sản doanh nghiệp hết hạn làm cơ sở chia tài sản là sai.
Kết quả thẩm định giá chỉ dựa trên báo cáo tài chính, danh mục tài sản phía ông Vũ đưa ra, không được phía bà Thảo xác nhận nên cần định giá lại. Cấp phúc thẩm đã bỏ qua việc này.
Bản kiến nghị phân tích bà Thảo là doanh nhân, có yêu cầu được chia cổ phần và vốn góp nhưng tòa án các cấp lại chia cho bà tiền, để ông Vũ nắm toàn bộ cổ phần là vi phạm quyền được kinh doanh của bà Thảo.
Quyết định giám đốc thẩm buộc bà Thảo chấm dứt hoạt động kinh doanh bình thường là không phù hợp quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng nam nữ được nêu trong Hiến pháp và nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình.
Đối với nhận định của các cấp tòa về việc nếu để bà Thảo tiếp tục là cổ đông quản lý, hoạt động của Tập đoàn Trung Nguyên sẽ khó khăn, ảnh hưởng sự ổn định và việc làm cho hàng nghìn công nhân thì VK cho rằng "không có cơ sở”.
Các công ty có tranh chấp giữa vợ chồng ông Vũ đều thành lập từ năm 2006. Sau 8 năm hai người kết hôn nhưng tòa án lại chia cho bà Thảo ít hơn chồng 20% giá trị (hơn 1.400 tỉ đồng) là không đảm bảo quyền lợi cho bà.
Ngoài ra, VKS còn cho là bà Thảo ngoài nội trợ còn trực tiếp kinh doanh, góp phần tạo tài sản chung vợ chồng, sự phát triển của Tập đoàn Trung Nguyên. Trong mâu thuẫn ly hôn, tòa án các cấp không xem xét đầy đủ trách nhiệm của ông Vũ trong thực hiện nghĩa vụ của người chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình. Từ đó, cần tăng tỷ lệ % tài sản bà Thảo được chia, thay vì chỉ nhận 40% còn ông Vũ hưởng 60% như đã phán quyết.
Trước đó nữa, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã xem xét giám đốc thẩm vụ ly hôn "ngàn tỉ" do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND Tối cao. Kháng nghị đề nghị hủy bản án sơ và phúc thẩm về phần hôn nhân và chia tài sản chung, giao hồ sơ cho TAND TP.HCM xét xử lại từ đầu.
Quyết định giám đốc thẩm xét ông Vũ có đơn đề nghị rút yêu cầu chia 70 tỉ trong tài khoản mang tên ông Lê Hoàng Văn (anh bà Thảo). Vì đây là sự định đoạt của đương sự, TAND Tối cao đã sửa án phần này theo yêu cầu của ông Vũ. Các quyết định khác của bản án được giữ nguyên.
Tháng 12-2019, TAND Cấp cao tại TP.HCM đã bác kháng cáo của bà Thảo và ông Vũ. Đồng thời, tòa chấp nhận một phần kháng nghị của VKS trước đó.
Cụ thể, tòa tuyên xử công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Thảo và ông Vũ. Về cấp dưỡng, tòa công nhận sự thuận tình của bà Thảo là nuôi bốn đứa con, ông Vũ cấp dưỡng 2,5 tỉ đồng mỗi cháu/năm, từ năm 2013 đến khi mỗi cháu học xong đại học.
Về tài sản, tòa tuyên y án sơ thẩm. Bản án sơ thẩm ghi giao cho ông Vũ sở hữu toàn bộ cổ phần tại các công ty trong Tập đoàn Trung Nguyên và các bất động sản. Cụ thể, ông Vũ được sở hữu toàn bộ số cổ phần của ông và bà Thảo trong công ty thuộc Tập đoàn Trung Nguyên, tương đương với số tiền trị giá là hơn 5.700 tỉ đồng.
Về bất động sản, tòa sơ thẩm tuyên giao cho ông Vũ sở hữu tất cả sáu tài sản nhà và đất mà ông Vũ đang quản lý và sử dụng có giá trị 350 tỉ đồng tại các quận Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình (TP.HCM), Nha Trang (Khánh Hòa) và Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk).
Còn với bà Thảo, cấp sơ thẩm giao cho sở hữu khối tài sản gồm tám bất động sản với tổng trị giá gần 376 tỉ đồng tại các quận 2, 3, 9 (TP.HCM) và Đà Nẵng.
Đồng thời giao cho bà Thảo sở hữu số tài sản và tiền, vàng cùng các loại ngoại tệ đang nằm trong các ngân hàng, tổng cộng là 1.764 tỉ đồng.
Ông Vũ có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho bà Thảo gần 1.224 tỉ đồng. Ngoài ra, tòa phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện của ông để lại tài sản của mình tại Công ty TNHH Trung Nguyên International - TNI tại Singapore cho bà Thảo.
Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao
Kiến nghị xem xét lại quyết định của HĐTP TAND Tối cao là một thủ tục đặc biệt. Vụ án ly hôn, tranh chấp tài sản này đã được HĐTP TAND Tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm nên viện trưởng VKSND Tối cao không thể áp dụng thủ tục kháng nghị nữa mà phải kiến nghị theo Điều 358 BLTTDS 2015.
Đây là trường hợp viện trưởng VKSND Tối cao kiến nghị khi có căn cứ xác định quyết định của HĐTP TAND Tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà HĐTP TAND Tối cao, đương sự đã không thể biết được khi ra quyết định đó.
Về thủ tục, Điều 359 BLTTDS 2015 quy định trong một tháng kể từ ngày nhận được kiến nghị, chánh án TAND Tối cao phải báo cáo và đề nghị HĐTP TAND Tối cao mở phiên họp xem xét. HĐTP TAND Tối cao thảo luận và biểu quyết theo đa số về việc có mở phiên họp hay không.
>
Trường hợp không nhất trí kiến nghị thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Viện trưởng VKSND Tối cao.
Trường hợp nhất trí, HĐTP quyết định mở phiên họp để xem xét lại quyết định của HĐTP với sự tham gia của viện trưởng VKSND Tối cao. Phiên họp phải có sự tham gia của toàn thể thẩm phán TAND Tối cao.
Về thẩm quyền, Điều 360 BLTTDS 2015 quy định: Tại phiên họp, HĐTP TAND Tối cao xem thấy có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định, bản án… đã ban hành thì sẽ đưa ra một trong ba quyết định như sau:
Một là, hủy quyết định của HĐTP TAND Tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án.
Hai là, hủy quyết định của HĐTP TAND Tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của TAND Tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật.
Ba là, hủy quyết định của HĐTP TAND Tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho tòa án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quyết định của HĐTP TAND Tối cao phải được ít nhất 3/4 tổng số thành viên của HĐTP TAND Tối cao biểu quyết tán thành.